Đến nội dung

Hình ảnh

[Góc lịch sử] Cổ nhân và những câu chuyện lịch sử

danhnhan

  • Please log in to reply
Chủ đề này có 35 trả lời

#21
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Chuyện tiến sĩ cưỡi bò và câu đối khiến quan huyện sợ hãi quỳ lạy

Sau câu đối của ông lão cưỡi bò, viên quan huyện hống hách, kiêu ngạo, chuyên ức hiếp dân lành phải quỳ xuống đất lạy như tế sao.

Ong_lao_cuoi_bo.jpg

Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Trần Văn Trứ, tự là Anh Mẫn, thụy là Đôn Nhã, hiệu Thanh Khê, sinh năm 1716. Năm 28 tuổi, ông thi đỗ Hoàng Giáp khoa Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm 1743.Ông ra làm quan tới Thiên đô ngự sử dưới thời vua Lê Hiển Tông, người đương thời quen gọi ông là tiến sĩ Từ Ô (ông quê thôn Từ Ô, huyện Thanh Miện, Hải Dương).

Sách Hải Dương phong vật chí chép rằng tuy làm quan to, vì thấy triều đình quá mục nát, ông cáo lão về quê. Nhiều người tiếc nuối, bởi ông là vị quan thanh liêm chính trực, có tài lại thương dân.

Tương truyền có lần, Trần Văn Trứ phụ trách khoa thi hương ở trấn quê nhà. Hay tin này, bà vợ nói riêng với ông “năm nay có đứa cháu đi thi, mong được ông rộng tay cho nó được mở mày mở mặt. Tên nó là Hi”.

Nghe vợ nói thế, ông không nói gì mà chỉ gật đầu biết vậy. Bà vợ lại nói với người theo hầu nhớ để ý việc này, khi nào ông duyệt đến quyển văn của cháu thì làm hiệu “hi hi”, để nhắc để ông nhớ.

Khi ông chấm văn, người hầu nhận ra dấu hiệu trong bài thi mà quan bà đã nói, liền đứng cạnh vờ đằng hắng “hi hi”. Khi ấy, ông sực nhớ lời vợ. Ông liếc qua lời văn dưới mắt mình thì thấy lời lẽ bất thông, không xứng đáng cho đỗ.

Ngay lúc đó, ông cầm bút son sổ dài lên mặt quyển thi mà nói rằng: “Này thì hi hi! Này thì hi hi”. Thấy vậy, người này tái mặt, vội vàng trốn ra ngoài.

Theo sách Giai thoại văn học Việt Nam, trong lần về nhà, biết viên tri huyện là kẻ rất hách dịch, hễ ai qua nhà hắn mà không xuống ngựa, xuống cáng đều bị hắn đánh đòn. Một hôm, nhân đi chơi qua dinh huyện, ông mượn một con bò cưỡi đi nghênh ngang không chịu xuống.

Lính huyện thấy vậy liền ra lôi ông vào trong phủ quan. Ông nói là thầy đồ già đi dạy học ở tỉnh xa mới về nên không hay biết lệ này, vả lại lệ quan buộc phải xuống ngựa chứ không buộc xuống bò.

Nghe ông nói vậy, viên quan huyện quen thói hống hách liền la hét một hồi, truy hỏi sách này, vặn sách kia để thử thách. Thấy ông đối đáp trôi chảy, lại có vẻ ung dung mà có tuổi tác, viên quan có ý nể, liền bảo: “Lý ra tội nhà thầy phải đánh đòn, nhưng ta nể cái bộ râu của thầy nên tha đòn cho. Thầy phải đối câu ta ra để tạ ơn nghe!”.

Lão quan huyện ra vế đối rằng: “Quan huyện Thanh Miện thấy kẻ vô lễ nên muốn đánh”. Ông chợt nhớ tới chi tiết “bộ râu” trong vế đối của quan huyện bèn cười khẩy và nói to: “Tiến sĩ Từ Ô hạnh hữu tu nhi đắc thoát”, nghĩa là “Tiến sĩ Từ Ô may nhờ có râu mà thoát đòn”.

Lúc này, viên quan huyện cùng lũ nha lại mới biết là tướng công họ Trần, sợ toát mồ hôi, liền phủ phục lạy như tế sao. Khi ấy, ông nghiêm sắc mặt, chỉnh cho chúng một hồi về đạo đức khiêm tốn rồi bỏ đi.

Một hồi sau, đám quan lại vẫn không dám đứng dậy, người xem được một trận cười. Từ đó, những hành động hống hách, vô lý kia của quan huyện cũng được bãi bỏ.

Trần Văn Trứ sinh ra trong gia đình khoa bảng, có nền nếp thi thư, nhiều đời có người làm quan, làm thầy đồ, thầy thuốc. Ông là người thẳng thắn, làm quan chấp pháp nghiêm minh, danh tiếng vang xa.

Sinh thời, ông để lại một số tác phẩm văn chương, dù số lượng hiện nay không thật đồ sộ, cũng đóng góp đáng kể cho diện mạo văn học trung đại Việt Nam thời kỳ này.

Bên cạnh đó, cuộc đời và nhân cách của ông là tấm gương phản ánh tư tưởng, tình cảm, vị trí của tầng lớp trí thức đương thời trong xã hội đầy biến động thời kỳ này.

.

Theo TRI THỨC TRỰC TUYẾN



#22
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Những thiếu niên anh hùng làm rạng danh sử Việt

Bóp nát quả cam vua ban tặng vì không được dự hội nghị bàn kế đánh giặc, bắn chết mật thám Pháp để bảo vệ đồng đội là những điển tích về thiếu niên anh hùng nước Việt.Tran-Quoc-Toan-t.jpg

Tran-Quoc-Toan.jpg

Lý Nhân Tông: Ông tên thật là Lý Càn Đức (1066-1128), con trai đầu của vua LýThánh Tông. Lên ngôi khi mới 7 tuổi, dưới sự nhiếp chính của mẹ (Nguyên phi Ỷ Lan), Lý Nhân Tông không ngừng hoàn thiện bản thân, trở thành minh quân. Dưới thời trị vì của Lý Nhân Tông, triều đình cho thành lập Văn Miếu – Quốc Tử Giám, mở kỳ thi Nho học đầu tiên, đánh tan quân Tống xâm lược vào các năm 1075, 1077 cùng nhiều thành tựu kinh bang tế thế khác.

Trần Quốc Toản: Câu chuyện về thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản đã trở thành cảm hứng thi ca, tấm gương sáng cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên người Việt noi theo. Không được vua Trần cho dự hội nghị bàn kế đánh giặc ở bến Bình Than vì còn quá nhỏ, với tinh thần yêu nước sôi sục, Trần Quốc Toản về nhà, tụ tập gia nô, xung phong ra trận, giết giặc lập công. Câu chuyện về lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” đã trở thành một trong những hình ảnh điển hình về tinh thần yêu nước của người Việt.

Nguyễn Hiền chính là trạng nguyên trẻ nhất trong nghìn năm khoa bảng nước nhà. Tại kỳ thi năm 1247 thời vua Trần Thái Tông, Nguyễn Hiền (1234-1256) đỗ trạng nguyên khi 13 tuổi. Vua Trần Thái Tông cho Nguyễn Hiền về quê tu dưỡng thêm 3 năm vì còn quá nhỏ. Về sau, trạng nguyên trẻ tuổi làm quan đến chức Thượng thư bộ Công. Tiếc rằng, cái chết ở tuổi 22 của Nguyễn Hiền khiến nước ta mất đi một nhân tài khoa bảng.

Lê Thái Tông: Lên ngôi khi mới 11 tuổi, Lê Thái Tông nắm quyền điều hành chính sự. Trong thời gian trị vì, ông đã ổn định xã hội, nghiêm trị tham ô, hoàn thiện hệ thống nghi thức, lễ nhạc của triều đình, tăng cường chỉnh đốn quân đội, chấn hưng giáo dục. Đại Việt dưới thời trị vì của ông được đánh giá cường thịnh, như chính câu ca dao xuất hiện trong dân gian: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông / Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”.

Lê Nhân Tông: Sau cái chết bất ngờ của vua Lê Thái Tông năm 1442, Lê Nhân Tông được triều thần tôn làm vua, khi mới hơn 1 tuổi. 10 năm đầu được mẹ nhiếp chính, sau đó, vua tự điều hành chính sự khi chỉ mới hơn 10 tuổi. Giống như vua cha, Lê Nhân Tông tiếp tục xây dựng đất nước cường thịnh như thời vua Thái Tổ, Thái Tông.

Duy Tân: Vua có tên thật Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900-1945). Khi đồng ý để ông lên ngôi, người Pháp hy vọng vua 7 tuổi như Duy Tân sẽ giúp chúng dễ bề thao túng triều chính. Thế nhưng, vua Duy Tân sớm bộc lộ tinh thần yêu nước và quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp để giành độc lập. Hiếm có vị vua nào như Duy Tân, dám từ bỏ ngôi báu để dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau này, khi bị thực dân Pháp phế truất, vua chỉ cười mỉa mai khinh bỉ, rời bỏ ngai vàng không hề tiếc nuối.

Lý Tự Trọng: Anh hùng Lý Tự Trọng (1914-1931) quê ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Mới 10 tuổi, Lý Tự Trọng đã tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1931, trong buổi mít tinh kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng bắn chết viên mật thám Le Grand để bảo vệ diễn giả Phan Bôi. Sau sự kiện này, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình khi mới 17 tuổi. Trước khi ra đi, anh để lại câu nói lưu danh muôn đời: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là cách mạng, không thể là con đường nào khác”.

Kim Đồng: Anh tên thật là Nông Văn Dền (1929-1943), người dân tộc Nùng, quê ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Năm 12 tuổi, Kim Đồng tham gia hoạt động cách mạng, làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc năm 1943, khi cán bộ đang họp, anh phát hiện quân Pháp, Kim Đồng đã đánh lạc hướng để các bạn mình đưa bộ đội về căn cứ an toàn. Khi chạy qua suối, quân Pháp đã nổ súng. Kim Đồng hy sinh bên suối Lênin (Cao Bằng), khi vừa tròn 14 tuổi.

Võ Thị Sáu: “Người con gái trẻ măng / Giặc đem ra bãi bắn / Đi giữa hai hàng lính / Vẫn ung dung mỉm cười / Ngắt một đóa hoa tuơi / Chị cài lên mái tóc…”. Những câu thơ đó đã phần nào minh họa được chân dung của anh hùng Võ Thị Sáu (1933-1952) – người con gái đã hy sinh thân mình, trở thành tấm gương sáng cho thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN

Nguon: Redsvn.net



#23
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Triết gia Trần Đức Thảo – Tổ quốc là chân lý

Giữa triết học kinh viện và cuộc đời thực có khoảng cách lớn. Nhưng Trần Đức Thảo, người được coi như triết gia xuất sắc của Việt nam thế kỷ 20, đã hy vọng tìm thấy chân lý ngay trong đời sống thực mỗi ngày.

Tran-Duc-Thao.jpg

Và niềm hy vọng đã trả lời trong những tác phẩm triết học uy tín của ông trên thế giới. Điều kỳ diệu là ông đã viết chúng bằng chất liệu rút ra từ đời sống thực ngay chính trên Tổ quốc thiêng liêng của mình.

Cuộc “kịch chiến” huy hoàng

Trong các cuộc tranh luận tư tưởng khoa học, nghệ thuật… giống như trong thể thao (quyền Anh), những người lên tiếng trước, tức là những kẻ “thách đấu” luôn biết rõ sức mạnh thực sự của đối thủ. Chính vậy mà cuối năm 1949, đời sống tinh thần châu Âu chao đảo dữ dội, các nhà tư tưởng, các triết gia, nhà văn, nghệ sĩ… và cả công chúng có tri thức của châu Âu bị chấn động khi vị “chủ soái” của thuyết Hiện sinh nhà văn lẫy lừng khắp thế giới, Jean Paul Sartre, chủ động đưa ra lời mời “tranh luận” với một triết gia người Việt nam, Trần Đức Thảo.

Sự kiện J.P. Sare thực tâm muốn tranh luận để cố chứng minh chất “nhân bản” trong chủ thuyết của mình là một chuyện kỳ lạ đối với nhà văn có đầu óc ngạo mạn này. Nhưng các nhà khoa học châu Âu còn kinh ngạc hơn vì trong đầu họ, tri thức chỉ có ở những xã hội văn minh chứ không thể đến từ những nước họ coi là thuộc đia cần được khai sáng. Chính vậy nên khi Trần Đức Thảo nhận lời cuộc tranh luận được ghi lại rất tỉ mỉ, từng lời nói, từng quan điểm để nhanh chóng chứng minh sự thất bại chắc chắn của triết gia An Nam xa xôi.

Cuộc tranh luận tổ chức thành năm buổi luận đàm trực tiếp có nhiều người nghe. Trong thời gian này, thuyết Hiện sinh của J.P. Sartre có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Pháp, lôi kéo được rất nhiều trí thức và giới sinh viên đi theo. Tư tưởng của J.P. Sartre thực chất là sự biến thể tư tưởng của Rimbaud, nhà thơ hoảng loạn cuối thế kỷ 19. Thuyết Hiện sinh của J.P. Sartre không có gì mới mẻ cả. Nó không bắt nguồn từ tư tưởng của Kierkegaard như đa số lầm tưởng. J.P. Sartre đã đọc sách tư tưởng phương Đông và rút lấy bài học từ những chứng nghiệm của Thiền tông.

Tuy nhiên, J.P. Sartre đã lầm lẫn từ những “hành động” nội tâm sang những hoạt động bình thường trong xã hội. Bằng trái tim chiêm nghiệm phương Đông, Trần Đức Thảo đã chỉ ra thực chất sai lầm của thuyết Hiện sinh, mặt khác, bằng trí óc mạnh mẽ, lập luận lôgích, ông đã chứng minh chất ưu đẳng của chủ nghĩa Duy vật biện chứng theo cảm nhận của cá nhân ông lúc đó.

Với vốn tiếng Pháp tuyệt vời của mình, Trần Đức Thảo đã bẻ gãy những “đòn” lập luận lắt léo của người đối thoại. Ông dùng hiện thực lịch sử sinh động để minh chứng cho những quan điểm của mình. Lập luận của J.P. Sartre vốn dựa vào “tư biện” hoàn toàn, không dựa vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống thực nên không đủ thuyết phục ngay cả những trí thức theo dõi bên ngoài. J.P. Sartre lâm vào thế “cưỡi hổ”, liền đề nghị một “thỏa hiệp” phân chia “quyền lợi” của thuyết Hiện sinh và chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Thuyết Hiện sinh thuộc về triết học; chủ nghĩa Duy vật biện chứng thuộc về những vấn đề chính trị xã hội. Nhưng cái “mẹo” muốn đẩy chủ nghĩa duy vật biện chứng ra khỏi toà lâu đài triết học đã không đánh lừa được triết gia người Việt.

Do Trần Đức Thảo giữ vững quan điểm của mình nên cuộc tranh luận đi đến việc định nghĩa lại những khái niệm nền tảng của triết học. Về “ý thức đầu tiên” khởi sinh trong con người được Husserl (Nhà hiện tượng học nổi danh bấy giờ) trình bày trong cuốn “Trải nghiệm và luận giải”. J.P. Sartre không nắm rõ cuốn đó nên cuộc tranh luận tạm ngừng lại. Trần Đức Thảo hào hiệp đồng ý không kể lại cuộc trao đổi này. Cuộc tranh luận được ngóng chờ đột nhiên lắng đi khiến dư luận không khỏi thắc mắc.

Những môn đồ của J.P. Sartre hậm hực vì phải kết thúc tranh luận trong yên lặng nên nhân dịp này đổ lỗi cho triết gia người Việt làm hỏng cuộc tranh luận. Để bảo vệ quan điểm của mình, Trần Đức Thảo buộc lòng phải lên tiếng đề nghị cho in bản tốc ký. Lúc này, thế giới tinh thần châu Âu mới bàng hoàng hiểu rằng triết gia người Việt chính là người chiến thắng.

Chỉ có một con đường: Nổ súng

Giáo sư Trần Đức Thảo sinh năm 1917 ở thôn Song Tháp, xã Châu Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình khá giả. Cha ông làm ngành Bưu điện nên có điều kiện cho hai cậu con trai xuống Hà nội học trường Tây. Cha ông đăng ký cho ông thi vào học trường Luật, một trường thực dân Pháp mở ra chủ yếu dạy con cái người Pháp ở Hà nội với những giáo sư giảng dạy có tiếng. Lúc này chủ nghĩa phát xít đang để lộ những nanh vuốt khủng khiếp của nó. Giới khoa học cố sức khôi phục tinh thần nhân văn xã hội của Hegel. Điều này để lại ấn tượng vô cùng mãnh liệt cho cậu học trò ham suy luận. Trần Đức Thảo tốt nghiệp xuất sắc trường Luật và được đăng ký dự thi vào Trường cao đẳng Sư phạm phố D’Ulm ở Paris năm 1939. Đây là trường thuộc loại danh giá nhất trong hệ thống đào tạo đại học ở Pháp.

Nhiều triết gia, nhà văn, nhà hoạt động xã hội lừng danh của châu Âu từng được đào tạo ở đây Người Việt du học không mấy người thi vào được trường D’Ulm. Do ý thức được ngôi trường mình đang học là đầu mối tiếp xúc của các tư tưởng tiên tiến trên thế giới, Trần Đức Thảo ngày đêm đọc sách, tìm tòi tư liệu trên báo chí. Trong đầu ông tràn ngập tư tưởng của các hiền nhân. Ông đặc biệt quan tâm đến tác phẩm của Husserl và Hegel. Luận văn tốt nghiệp của ông đạt điểm cao nhất khóa học. Tên tuổi ông được giới khoa học đặc biệt chú ý.

Thời gian này, tác phẩm của Husserl là chủ đề của hầu hết mọi cuộc đàm luận về triết học và xã hội, bởi phát xít Đức cấm dạy tác phẩm của triết gia này ở các trường đại học. Ông bảo vệ thành công luận án cao học rồi tiến sĩ về “Hiện tượng học của Husserl tại Trường đại học Sorbonne danh tiếng. Do đó ông nghiễm nhiên trở thành một triết gia được giới trí thức chờ đợi và kính trọng. Càng tiến triển trên con đường vinh quang, gặp gỡ nhiều tầng lớp tri thức, Trần Đức Thảo càng nhận rõ số phận đất nước, quê hương của mình. Ông tích cực dạy tư cho nhiều nhóm sinh viên du học người Việt về những tư tưởng triết học tiến bộ trên thế giới. Bên cạnh đó, ông tham gia nhiệt tình vào Hội kiều dân Đông Dương, kêu gọi giới trí thức và nhân dân tiến bộ châu Âu nhận rõ thực chất của chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, bằng những sự thực lịch sử hùng hồn, ông đập tan những luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc về Mặt trận Việt Minh.

Năm 1944, trong Đại hội kiều dân họp ở Avignon, Trần Đức Thảo đã trình bày cương lĩnh đấu tranh đòi thiết lập nền dân chủ ở Đông Dương. Ông tự mình viết rất nhiều truyền đơn và tổ chức họp báo vận động, kêu gọi kiều dân, dư luận xã hội Pháp ủng hộ cuộc cách mạng chính nghĩa ở Việt nam. Năm 1945, ông cùng với Lê Viết Hường thay mặt Hội kiều dân Đông Dương làm việc với Maurice – Tổng bí thư Đảng cộng sản Pháp, tại trụ sở Đảng về tình hình Đông Dương. Nhận thấy những hoạt động của ông tố cáo trực tiếp những lợi ích bẩn thỉu của chế độ thực dân, nhà cầm quyền lập tức bắt Trần Đức Thảo.

 

Nhiều nhà khoa học Pháp, báo Nhân đạo (L’humanité), Thời hiện đại (Les Temps Modemes)… liên tục lên tiếng đòi chính quyền trả tự do cho Trần Đức Thảo. Trước phản ứng gay gắt của dư luận, nhà cầm quyền Pháp chơi trò “gắp lửa bỏ tay người”, tung tin lập lờ rằng Trần Đức Thảo dường như có quan hệ với phát xít Đức. Nhưng trò chơi tiểu nhân đó không làm cho dư luận lầm lẫn. Giới trí thức thực sự hiểu rõ ông là ai, bởi tên tuổi ông còn gắn với Husserl một kẻ thù của tư tưởng phát xít. Cuối cùng chúng phải thả người con của tự do nhưng không quên công khai giám sát ông chặt chẽ.

Để minh chứng tinh thần bất khuất của một người con yêu nước, Trần Đức Thảo kiên quyết không tiếp tục làm việc với Trung tâm Nghiên cứu quốc gia Pháp (CNRS). Ông dạy triết học tư, viết sách để kiếm sống. Trong một cuộc họp báo kêu gọi ủng hộ cách mạng ở Việt nam, một nhà báo hỏi: “Với tư cách là một triết gia, ông cho rằng nhân dân Việt nam sẽ hành động thế nào khi quân viễn chinh Pháp đổ bộ”. Trần Đức Thảo đáp lại ngắn gọn, đanh thép: “Nổ súng?”.

Triết gia nhập thế

Cũng giống như các trí thức lớn theo lời hiệu triệu của Hồ Chủ tịch rũ bỏ cuộc sống yên ổn, phồn hoa ở Paris, trở về làm cách mạng. Nhưng số phận ông có điều đặc biệt hơn bởi các nhà triết học thường tự giam mình trong tháp ngà cá nhân xa lánh nhân thế. Khi biết quyết định trở về của ông, những trí thức châu Âu cho rằng thế giới sẽ mất đi một triết gia lỗi lạc. Nhưng khước từ “chủ nghĩa kinh viện” trong nghiên cứu, Trần Đức Thảo thực sự muốn “Phải làm cho cuộc sống nhất trí với triết học”.

Chính vậy mà tinh thần của ông “nhập thế”, lao động với những vấn đề cốt yếu nhất mà xã hội đặt ra. Cuối năm 1951, để khỏi bị theo dõi, ông chỉ mang theo vài cuốn sách quý như thể đi du lịch, bí mật rời khỏi Paris. Từ Luân Đôn qua Praha, qua Mátxcơva, Trần Đức Thảo ngang qua Bắc kinh, tìm đường về biên giới Việt-Trung. Từ lâu, tên tuổi của ông đã là niềm tự hào của giới trí thức và sinh viên trong nước. Buổi thuyết giảng đầu tiên, sinh viên ngồi kín hội trường. Nhiều giáo sư tìm đến nghe.

 

Bằng tiếng mẹ đẻ thuần khiết, ông đã truyền lòng say mê môn học khó khăn này cho sinh viên… Giảng dạy được ít lâu, ông chuyển sang làm những công việc khác, có những công việc hoàn toàn không hợp với khả năng của ông. Cuộc sống thử thách ông, muốn biết ông có bất lực phải trở về với “chủ nghĩa kinh viện cổ điển” trong nghiên cứu triết học hay không. Dường như vai trò một người hoạt động xã hội không hợp với ông.

Tuy vậy, ông đón nhận những khó khăn của cuộc sống bằng cách tiếp tục lao động hăng hái hơn. Những tác phẩm của ông liên tục được đăng trên các tạp chí triết học của Pháp như “Hạt nhân của phép biện chứng”, “Từ hiện tượng học đến phép duy vật biện chứng của trí thức”… Những tác phẩm tiếp theo như “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”, “Sự ra đời của con người đầu tiên”… cho đến tác phẩm cuối cùng “Lôgíc của thực tại sống động” đã khiến ông nổi danh trên toàn thế giới. Những tác phẩm này được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như Đức, Tây Ban Nha, Anh, Nhật Bản… và được nghiên cứu trong nhiều trường đại học trên thế giới. Trần Đức Thảo trở thành một trong những triết gia duy vật lịch sử uy tín của thế kỷ 20. Trong lời giới thiệu cuốn “Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ” của ông, Nhà xuất bản Xã hội ở Paris viết rằng, tư tưởng của triết gia Trần Đức Thảo đã ghi dấu ấn quan trọng đến tinh thần của cả thế hệ trí thức, sinh viên Pháp những năm năm mươi.

Ngay tại nước Đức, đất nước của triết học cũng có nhiều triết gia tự nhận là môn đệ của Trần Đức Thảo. Bằng nỗ lực không ngừng kiếm tìm “triết học” ngay trong cuộc sống hiện tại trên quê hương, ông đã tạo dựng được nền tảng triết lý chắc chắn của môn khoa học vừa khó khăn, vừa đặc biệt “quý tộc” này. Sự ngụy tạo và lười biếng của một số người hay đổ lỗi cho sự khó khăn xã hội nên không làm việc được đã bị phơi bày trước “thực tại sống động” của cuộc đời ông.

Bí mật đời thường của triết gia

Đối với các triết gia, nhu cầu thường trực của họ là được yên tĩnh để suy tưởng, cho nên những nhu cầu cá nhân khác dường như không thiết yếu lắm. Tuy nhiên, tình yêu cũng rạo rực trong trái tim triết gia một lần. Năm 1949, nữ sinh Nguyễn Thị Nhứt sang Pháp để ôn thi vào Trường đại học Sorbonne. Theo lời bạn học, cô đến học ôn triết học của thầy Thảo ngay tại nhà trọ của thầy. Hai người tỏ ra quý mến nhau, nhưng khi gặp thầy cũng chỉ nói chuyện triết học. Trước khi về nước, ông chỉ nói rằng nếu còn gặp lại thì sẽ sống với nhau.

Khi bà về nước, họ trở thành vợ chồng và một lễ cưới đơn sơ. Ngay khi sống với nhau, bà hiểu ra rằng tâm trí ông dồn cả vào triết học. Nhiều lần bà ngồi ăn cơm một mình trong khi chồng ở ngay phòng bên cạnh. Ông hầu như không để ý đến những nhu cầu cá nhân hằng ngày, thậm chí còn khó chịu khi ai đó tỏ ra chăm sóc mình vì vô tình người kia đã kéo ông ra khỏi dòng suy tưởng.

Một mình bà không thể giữ được tình cảm thuở ban đầu. Bà bị viêm tử cung và không thể có con. Đứa con – sự ràng buộc đồng thời là thiên thần che chở cho hạnh phúc gia đình, cuộc đời không ban cho vợ chông bà. Bà lặng lẽ ra đi. Gia đình không hiểu đời sống của triết gia, muốn tìm cho ông một người bạn đời khác, ông kiên quyết từ chối. Ông sống một mình và tự lo lấy sinh hoạt cá nhân hằng ngày. Do ông bị bệnh tiểu đường nên món ăn chính của ông là lạc rang và đậu xanh.

Theo lời cháu họ ông kể lại thì khi triết gia vào bếp, từ hai món đó sẽ nấu thành những món ăn chưa từng thấy trong các sách nội trợ. Để lấy chỗ để sách, ông nhờ mấy người buôn đồng nát đến cho họ khiêng khỏi nhà từ giường, tủ buýpphê, chăn màn, giày dép, chén điã… Căn phòng chỉ còn chiếc đivăng lớn chất đầy sách chừa ra một khoảng nhỏ có mắc màn sẵn.

Một lần, mọi người trong khu tập thể thấy khói bay ra từ nhà ông, hàng xóm xô cửa vào thấy ông đang ngồi viết, chiếc nồi nhôm đang đun bên cạnh bị nung đỏ, thức ăn cháy hết… Sau một thời gian ngắn trở lại Paris làm việc, sống trong một điều kiện vật chất, tiện nghi hết sức tối thiểu, triết gia Trần Đức Thảo vĩnh biệt thế giới vào hồi 8 giờ 10 phút ngày 24/4/1993 tại Bệnh viện Broussais.

Thi thể triết gia được hỏa thiêu, gửi tro về chôn ở nghĩa trang Văn Điển. Hôm đưa tang, bà Nhứt đến với vòng băng tang trên cánh tay to hơn một chút so với vòng tang của những người bình thường. Ông đã ngủ yên trong lòng Đất Mẹ. Mãi mãi như vậy, từ Đất Mẹ “trí tuệ” trổ hoa, tỏa hương bay khắp bốn phương.

Theo AN NINH THẾ GIỚI CUỐI THÁNG

Nguon: Redsvn.net



#24
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Chuyện ít người biết về người cháu nội thiên tài của Trần Hưng Đạo

Nếu như những người con của Đức Hưng Đạo Vương, trai là danh tướng tài ba, gái là nữ kiệt anh hùng được người đời đều biết đến thì trong số các cháu của ông nổi trội nhất là Trần Quang Triều lại không phải bởi tài võ lược mà là nhờ tài văn chương.

Brushes.jpg

Trần Quang Triều (1286 – 1325) còn có tên là Trần Nguyên Đạo, Trần Nguyên Thụ, hiệu là Cúc Đường Chủ Nhân và Vô Sơn Ông, quê gốc ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, TP Nam Định, tỉnh Nam Định), ông là con trai cả của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng và là cháu nội Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.

Xuất thân từ gia đình thế tộc danh tiếng, được rèn rũa, giáo dục tốt lại có thiên bẩm thông minh nên Trần Quang Triều là người giỏi văn thơ, thông hiểu binh pháp, từng cầm quân đi dẹp loạn biên cương lập công lớn, được triều đình tín nhiệm phong tước Văn Huệ vương và thăng tới chức Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ. Sách Nam Định tỉnh địa dư chí viết về ông như sau: “Trần Quang Triều còn có tên là Quang Thọ. Ông là cháu Trần Quốc Tuấn, tước Văn Huệ vương. Thường làm nhà ở trong động sâu thuộc huyện Quỳnh Lâm, cùng các văn sĩ ngâm vịnh. Có tập thơ Cúc Đường di thảo. Vua Trần Minh Tông phong ông làm Tư đồ phụ chính”.

Một tư liệu khác là sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược thì chép: “Trần Quang Triều, ông là cháu Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, tước Văn Huệ vương, từng ngụ tại Quỳnh Lâm Bích Động, có nhiều vịnh ngâm sơn thủy như tập Cúc Đường di thảo. Vua Minh Tông cho chức Tư đồ phụ chính, thời kỳ này ông từng ban nhiều tiền khuyến khích dân chúng khẩn hoang”.

Như vậy, khi viết về Trần Quang Triều, các tư liệu đều nhắc đến điểm nổi bật nhất của ông là thích ngâm vịnh, làm thơ…

Quyền cao chức trọng nhưng bình sinh ông không ham danh lợi, chức vị mà thích cuộc sống nhàn nhã, yên bình nên làm quan không lâu, Trần Quang Triều từ chức về vùng Đông Triều sống ẩn dật. Ông đã chọn khu vực gần chùa Quỳnh Lâm làm nơi sinh sống, đây là một trong những trung tâm Phật giáo Việt Nam thời Trần. Bản thân Trần Quang Triều và vợ là công chúa Thượng Trân rất mến mộ đạo Phật, họ đã nhiều lần cung tiến nhiều tài sản gồm tiền, ruộng cho chùa Quỳnh Lâm mà bia đá tại chùa cũng như một số sách như Tam tổ thực lục đã ghi lại…

Tại vùng đất phong cảnh đẹp tươi, yên bình này Trần Quang Triều đã cùng những người bạn, những danh sĩ, nho sinh và những người cùng sở thích tập hợp nhau lại cùng bàn luận văn chương, làm thơ xướng họa rất tâm đắc hình thành lên thi xã Bích Động.

Bích Động là tên gọi một am ở gần chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều, lộ Hải Đông (nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), Bích Động được Trần Quang Triều lấy làm tên của một “câu lạc bộ thơ” đầu tiên ở nước ta với tên gọi chính thức là thi xã Bích Động.

 

Thi xã Bích Động đã tổ chức những cuộc đàm đạo văn thơ lôi cuốn được không ít nhà thơ có tên tuổi, các danh sĩ, nho sinh và cùng nhau góp phần hình thành một dòng thơ mới thiên về những niềm tâm sự cá nhân, về tình cảm tha thiết với thiên nhiên và thân phận con người.

Trong số thành viên của thi xã, ngoài nhân vật giữ vai trò chủ đạo là Trần Quang Triều còn có những người khá nổi bật là Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Sưởng,… Đây là những cá nhân ít nhiều có danh tiếng đương thời, như Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, mới 16 tuổi đã đỗ Hoàng giáp, làm quan trải qua 3 triều vua, nắm giữ các chức vụ quan trọng (Kinh lược sứ, Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm công việc Viện khu mật…), có công lao trong hoạt động ngoại giao, đánh dẹp phản loạn và biên định luật pháp… Về Nguyễn Ức, không có nhiều tư liệu về thân thế của ông, chỉ biết ông có thời gian làm quan dưới triều vua Trần Minh Tông; còn Nguyễn Sưởng là một danh sĩ nổi tiếng ở kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ… Tất cả tuy xuất thân, địa vị có khác nhau nhưng lại tìm thấy ở nhau sự đồng điệu về thơ ca, họ đã khơi nguồn lên dòng thơ trữ tình và nhân đạo nhiều cảm xúc.

Có một điều rất thú vị là những nhân vật của thi xã Bích Động chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo nhưng họ lại chọn vùng đất của đạo Phật làm nơi xướng họa, sáng tác của họ không bị bó buộc theo khuôn mẫu từ đề tài đến cách hành văn với xu hướng ca tụng vương triều, chuyện trị quốc an dân, hoài bão chính trị mà lời thơ thiên về nỗi cảm hoài, về đời sống bình dân, nghĩa tình. Thậm chí các nhà thơ này tuy có mối giao lưu mật thiết với các vị sư tại chùa Quỳnh Lâm và đạo sĩ am Bích Động nhưng không bị ảnh hưởng của dòng thơ Thiền mà có sự giao thoa, tác động trở lại.

Một điều hay nhất, nổi bật nhất là dù đứng trên nhãn quan của tầng lớp trên nhưng đối tượng phản ánh mà các nhà thơ trong thi xã Bích Động hướng đến nhiều chính là người dân thường và cuộc sống của họ. Chính điều này đã mang lại màu sắc riêng, đặc trưng trong các sáng tác của thành viên thi xã.

Trong bài “Điếu tẩu” (Ông già câu cá) Trần Quang Triều gửi gắm thái độ coi thường địa vị với những câu như sau:

Độn lãng xuy triều thướng bích than,
Lỗ thanh di nhập bích vân hàn.
Kỷ hồi bạc nhị huyền chung đỉnh,
Na trọng Đồng giang nhất điếu can.

Nghĩa là:

Thác biếc triều dâng sóng cá heo,
Mây lồng hơi lạnh tiếng bơi chèo.
Đồng Giang cần trúc từng xem nặng,
Hơn cả mồi câu vạc đỉnh treo.

(Phạm Tú Châu dịch)

Hay như trong bài “Đề Gia Lâm tự” (Đề chùa Gia Lâm), Trần Quang Triều nói thẳng rằng danh lợi không phải là mục đích, là lẽ sống:

Tâm khôi oa giác mộng,
Bộ lý đáo thiền đường.
Xuân vãn hoa dung bạc,
Lâm u thiền vận trường.
Vũ thu thiên nhất bích,
Trì tịnh nguyệt phân lương.
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương!

Nghĩa là:

Nguội ngắt lòng danh lợi
Am thiền rảo gót qua.
Xuân chầy hoa mỏng mảnh,
Rừng thẳm ve ngân nga.
Mưa tạnh da trời biếc,
Ao trong ánh trăng ngà.
Khách về, sư biếng nói,
Thông rụng, nức mùi hoa!

(Huệ Chi – Hoàng Lê dịch)

Hoặc trong bài “Trường An hoài cổ” ông viết rằng:

Hà nhạc chung tồn cố quốc phi,
Sổ hàng lăng bách bối tà huy.
Cựu thời vương khí mai thu thảo.
Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp phi.

Nghĩa là:

Núi sông còn đó nước xưa đâu?
Nắng xế gò cao bách giãi dầu.
Vương khí một thời chôn dưới cỏ,
Bướm đồng chao cánh dưới mưa mau.

(Huệ Chi dịch)

Ngoài tình cảm đối với con người là tình yêu thiên nhiên của những nhà thơ trong thi xã Bích Động, thí dụ như Trần Quang Triều trong bài “Hoàng Châu đạo thượng tác” (Viết trên đường đi Hoàng Châu) tả cảnh rất hiện thực, sống động khiến người đọc như được tự mình thấy cảnh sắc đó:

Đường đi trơn đá núi,
Khói độc lẫn mây ngàn.
Buồm khách ngoài mưa gió,
Chùa cao hứng nắng tàn.
Đất dâu gai xanh rợp,
Trời quýt bưởi đỏ chan.
Xe trẩy bâng khuâng nhớ,
Lòng về trĩu tâm can.

 

Có thể nói Trần Quang Triều nói riêng và các thành viên của thi xã Bích Động nói chung với những sáng tác của mình đã khơi một nguồn mạch mới cho thơ ca nước Việt ở giai đoạn cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV với đối tượng phản ánh và cách diễn ra câu từ đặc sắc. Mặc dù mỗi người một phong cách nhưng thơ họ đã phản ánh được nhiều sắc thái của thực tế đời sống trong xã hội bằng xúc cảm gần với hiện thực đời sống, gần với đời sống tình cảm con người mang rõ hơi hướng “thi trung hữu họa”. Đó chính là dòng thơ trữ tình và nhân đạo đầu tiên trong đời sống văn chương dân tộc và điểm nổi bật nhất là cảm hứng về dân rất sâu nặng, da diết, yêu thương.

Về Trần Quang Triều, người đương thời đánh giá ông là bề tôi giỏi, vị quan văn võ toàn tài, xứng đáng là trụ cột của vương triều. Ông còn là nhà thơ tài hoa, tinh tế, phóng khoáng; các sáng tác hàm súc, cô đọng, dễ hiểu mà như học giả Phan Huy Chú trong tập Lịch triều hiến chương loại chí khen ngợi là “thanh thoát, đáng ưa”.

Tiếc là bậc tài năng văn võ ấy lại đoản mệnh, Trần Quang Triều lâm bệnh mất khi chưa đầy 40 tuổi, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Ất Sửu năm thứ 2 (1325)… Mùa thu, tháng 8,… Tư đồ Văn Huệ vương Quang Triều chết (tuổi 39)”.

Theo LÊ THÁI DŨNG / KIẾN THỨC

Nguon: Redsvn



#25
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Chuyện về vị quan thanh liêm bậc nhất triều Nguyễn

Danh thần Trương Đăng Quế nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, được cả ba đời vua nhà Nguyễn trọng dụng.

Mo-Truong-Dang-Que.jpg

Mộ danh thần Trương Đăng Quế ở quê nhà.

Cùng học với các hoàng tử

Trương Đăng Quế tự Duyên Phương, tên hiệu là Đoan Trai, người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Tổ tiên ông vốn người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, theo Nguyễn Hoàng vào cư trú tại Quảng Ngãi năm 1624. Trương Đăng Quế sinh ngày 1/11 năm Quý Sửu (1793). Năm lên 9 tuổi ông mồ côi cha, là cậu bé chăm chỉ thông minh, hiền lành nên được anh chị em thương yêu đùm bọc. Năm 27 tuổi, ông đậu Hương cống (cử nhân) khoa Kỷ Mão (1819) triều Gia Long thứ 18. Tuy chỉ đậu cử nhân, nhưng ông thông suốt kinh sách, có tài thơ văn.

Trương Đăng Quế được bổ chức Hành tẩu bộ Lễ, một chức quan nhỏ chuyên về văn thư. Năm 1820, đời vua Minh Mạng, sau một năm tập sự ở bộ Lễ, vì có tiếng học hành và được một quan đại thần tiến cử, Trương Đăng Quế được bổ làm Đông cung bạn độc, tức là cùng học với các hoàng tử. Đó là cách nói khác của công việc dạy các hoàng tử học. Trong thời kỳ này, Trương Đăng Quế được gặp và gần gũi hoàng tử Miên Tông, sau này lên làm vua (tức là vua Thiệu Trị). Sau một thời gian ông được bổ chức Thượng bảo thiếu khanh với phẩm trật tòng tứ phẩm.

Năm 1830, Minh Mạng thứ 11, do có khả năng làm việc, ông được bổ chức Tả thị lang bộ Công làm ở Nội các, tức văn phòng của Vua, được gần Vua, tham gia cùng Vua bàn bạc đề ra những quyết sách liên quan đến cả nước. Cũng trong thời gian này Trương Đăng Quế được đổi bổ làm Tả thị lang bộ Lễ, vẫn làm việc ở Nội các. Một năm sau đó, vào tháng 12/1831, Trương Đăng Quế được thăng chức và điều chuyển từ Tả thị lang bộ Lễ sang làm Tả tham tri bộ Hộ, rồi sau đó lại được điều động về coi việc ở Võ Khố là kho quân sự nhà nước, quản lý phần lớn tài sản nhà nước.

Một vị quan thanh liêm

Mùa xuân năm 1832, Vua lại điều Trương Đăng Quế về giữ quyền án triện bộ Hộ, chính thức là Tả tham tri bộ Hộ. Chức Tả tham tri chỉ đứng sau Thượng thư. Cũng năm này, Trương Đăng Quế được thăng chức Thượng thư bộ Binh kiêm lãnh ấn triện viện Đô sát. Đến mùa đông ông chính thức làm Thượng thư bộ Binh kiêm trông coi tài chính.

Năm 1841 niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất, Trương Đăng Quế là cố mệnh đại thần được thăng làm phụ chính đại thần, Văn minh Viện Đại học sĩ, phẩm hàm chánh nhất phẩm. Tháng 12 cùng năm, ông lại được vua Thiệu Trị sung chức Ngự tiền đại thần. Đến năm 1847, vua Tự Đức cho Trương Đăng Quế thăng chức Cần chánh đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạch quận công.

Trương Đăng Quế là một vị quan thanh liêm, trung thành giúp rập ba triều vua triều Nguyễn: Minh Mạng (1820 – 1840), Thiệu Trị (1841 – 1847), Tự Đức (1848 – 1883), tận tâm, tận lực với công việc của triều đình.

 

Về việc chống thực dân Pháp: Trương Đăng Quế đã đứng về phe chống đối hoà ước Nhâm Tuất (5/8/1862) đã bác bỏ đề nghị của khâm sai Nguyễn Bá Nghi, kiên quyết chống thực dân Pháp dù có tin đồn Chí Hoà và thành Mỹ Tho bị thất thủ. Đầu năm Tân Dậu (1861), ông đã gián tiếp ủng hộ các lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp do Bình Tây Đại nguyên soái Trương Công Định cầm đầu.

Trương Đăng Quế và vua Minh Mạng

Có thể nghĩ rằng, vua Minh Mạng đã biết sử dụng đúng khả năng của Trương Đăng Quế, sớm trọng dụng và hết lời khen ngợi khi ông làm chủ sát hạch giáo chức các tỉnh, độc quyển điện thí, chủ khảo trường thi Hội các năm 1833, 1838, Tổng tài Quốc sử quán. Sau khi đọc hết lời tâu của Trương Đăng Quế về sách lược miền thượng du Thanh Hoá, về lập địa bạ sáu tỉnh Nam Kỳ, vạch thế trận trấn Tây thành…

Vua Minh Mạng đã khen Trương Đăng Quế: “Nhìn việc thấu triệt, nói được rõ ràng, có thể đi đến chỗ thành công”, “Nói thì chính trực vô tư, làm thì quả quyết được việc, chặn được manh lưới kẻ gian, dứt được việc lừa dối trước đây”. Và xem Trương Đăng Quế là một đại thần mưu lược và độ lượng. Vua Minh Mạng đã di chiếu cử Trương Đăng Quế sung phụ chính đại thần để tiếp tục giúp vua Thiệu Trị.

Đối với vua Thiệu Trị

Khi vừa lên ngôi, vua Thiệu Trị cho Trương Đăng Quế thăng Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh kiêm Cơ mật viện, tấn phong Tuy Thạch tử. Vua lại cho Trương Đăng Thụ, con trưởng của Trương Đăng Quế sánh duyên với con gái thứ tư của Minh Mạng, tức An Mỹ công chúa. Tháng 5 Bính Ngọ 1846, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế tước bá, khen ông hiền lương, trung chánh, đặc ân cho một cái bài ngọc khắc 4 chữ “Cố mạng lương thần”, bốn chốt sừng có hình thú bằng vàng, lại ủy nhiệm Trương Đăng Quế chức Tổng tài để tu chỉnh tập văn quy của vua Thiệu Trị. Tháng 9/1847, trong di chiếu phong Dục Tông lên ngôi, vua Thiệu Trị viết: “Trương Thái Bảo giúp Trẫm trị nước đã nhiều năm, nước thịnh, văn thị, võ thành, đem lòng trung yêu nước giúp trẫm thì cũng phải đem lòng ấy giúp thị quân”.

Với vua Tự Đức

Tự Đức lên ngôi lúc 18 tuổi. Năm 1848, Trương Đăng Quế được thăng Cần chánh đại học sĩ, tước Quận công, sung Kinh diên giảng quan. Nhà vua rất ưu đãi Trương Đăng Quế. Sau giờ giảng sách, ông thường được mời ở lại uống trà. Vua hết lòng tín nhiệm vị cố mạng triều thần này, 6 lần Trương Đăng Quế xin về hưu nhưng Vua vẫn giữ lại để chung lo việc nước.

Ngày Trương Đăng Quế về hưu (1863) Tự Đức ban các thứ dưỡng lão và khiến đình thần làm lễ tiễn đưa. Vua Tự Đức tỏ lòng mến mộ, luyến tiếc và ca ngợi tài đức của Trương Đăng Quế: “Xưa nay được một tôi già có tài, có đức, ít có. Trẫm cũng biết người khanh bệnh yếu, e khó kiếm người thay. Vì có tài, bất luận già trẻ, ưa nhau xin chớ phụ nhau. Nay đã đến ngày tiễn biệt nhau, gắng giữ cho trong cái chí cao thượng. Tiếc mãi người lão thành. Khanh về cũng nhớ ta, không phải là an cảnh già mà quên được đâu, huống chi cơ trời không nhất định, ta cũng hay đau…”. Vua Tự Đức còn bảo với Trương Đăng Quế, sau khi về hưu có biết được gì hay, nghĩ điều gì quan hệ về việc lợi hại trong nước, cho phát tạm tâu lên.

Ngày 15/2 năm Ất Sửu (1865) Trương Đăng Quế từ trần, thọ 73 tuổi. Vua Tự Đức tặng bài thơ đại ý: “Một người tôi hiền đã thác rồi, làm sao mà người trong nước khỏi kinh ngạc. Thần hồn của người đã về trên non cao, không mấy đời tái sinh lại nữa. Đối với đời thì người có bốn chữ: Phúc, Lộc, Danh, Thọ ghi trên minh tinh không thể hết. Đối với triều đình thì Lưỡng triều cố mạng ghi để trong Quốc sử…”. Vua sai tỉnh thần mang rượu tới nhà ban tế, tuyển thợ xây mộ.

Nguon: Redsvn.net



#26
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Sử gia Pháp: Hồ Chí Minh – Người giúp Việt Nam tìm lại niềm tự hào dân tộc

Tờ L’Humanité của Pháp phỏng vấn sử gia Alain Ruscio, tác giả của nhiều tác phẩm và công trình nghiên cứu liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Ho-Chi-Minh-4.jpg

Ho-Chi-Minh-3.jpg

Alain Ruscio là sử gia người Pháp. Ông là tác giả của hơn chục bộ sách nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, là Giám đốc Trung tâm Thông tin tư liệu VN tại Pháp, và từng là phóng viên thường trú duy nhất của tờ L’Humanité tại Việt Nam, từ năm 1978 đến năm 980.

Alain Ruscio rất ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã viết nhiều cuốn sách về Người. Từ nhiều năm nay, ông luôn gắn bó với đất nước, con người Việt Nam thông qua nghiên cứu lịch sử Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam và Hồ Chủ tịch, trong đó, có các tác phẩm đã xuất bản như “Hồ Chí Minh”, “Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh”, “Sống ở Việt Nam”, “Việt Nam, lịch sử, trái đất, loài người”…

.

– Ông có thể cho biết về vai trò lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nền độc lập của Việt Nam?

– Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng Việt Nam, Người tìm ra con đường đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi chế độ thực dân Pháp. Công lao của Hồ Chí Minh trong việc đưa Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay và mai sau. Người là người cha của nền độc lập của Việt Nam, là người đã giúp dân tộc Việt Nam tìm lại niềm tự hào được là người Việt Nam.

Chính vì những điều mà Người mang lại cho dân tộc Việt Nam mà người Việt Nam ngày nay vẫn vô cùng yêu mến vị lãnh tụ đáng kính mà họ thường gọi là Bác Hồ. Không dừng tại đó, hình ảnh Hồ Chí Minh đã vượt qua biên giới, lãnh thổ Việt Nam, đến nhiều quốc gia trên thế giới. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chống lại chế độ thực dân và tuyên bố nền độc lập của Việt Nam vào ngày 2/9/1945. Điều này đã tạo nên một tiếng vang, một ý nghĩa to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh được ví ngang với các lãnh tụ kiệt xuất như Gandhi, Nehru,… và nhiều lãnh tụ giải phóng dân tộc khác.

– Ông suy nghĩ gì về tư tưởng Hồ Chí Minh?

– Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhưng Người không bao giờ tỏ ý muốn công bố những tài liệu lý luận của mình. Người cũng chưa từng có ý định lý luận hóa những tư tưởng của mình. Người rất thực tế, không ngần ngại bàn đến tất cả các khía cạnh của cuộc sống, chẳng hạn như: trong những thời kỳ lương thực thiếu thốn, Người khuyên bảo dân không nên để đất hoang, kêu gọi cán bộ phải gần gũi với nhân dân và không thể là những “ông quan cách mạng”. Từ những khái niệm rất cụ thể, Người phát triển thành một tư tưởng lớn về mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với quần chúng nhân dân.

– Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa Lenin hay là người theo tư tưởng dân tộc?

– Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa Lenin là một lý luận dẫn đường sự nghiệp giải phóng dân tộc của Đảng.

Hồ Chí Minh là một người thuộc hai đảng cộng sản trên thế giới – ĐCS Pháp và ĐCS Việt Nam. Năm 1930, Người đã thành lập một đảng hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó khăn do Pháp đàn áp mạnh các lực lượng tiến bộ, chống lại chế độ thuộc địa. Hoạt động của Đảng tại thời điểm đó gần giống như một tổ chức quân sự. Đối với Người, Đảng phải có kỷ luật và đoàn kết. Trong thời kỳ đó, Người cũng thể hiện tinh thần bác ái với các phong trào chống thực dân trong nước.

– Vào năm 1954, Việt Nam giành độc lập nhưng đất nước bị chia cắt, vai trò của Hồ Chí Minh trong công cuộc thống nhất đất nước như thế nào?

– Năm 1954, người dân Việt Nam đau đớn vì đất nước bị chia cắt. Mỹ nhảy vào thay thế Pháp ở Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, người Việt Nam hiểu rằng, nếu muốn thống nhất đất nước, họ buộc phải tiến hành vào một cuộc chiến đấu mới. Điều này dẫn tới sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960 và thắng lợi năm 1975.

– Vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống lại sự chiếm đóng của Mỹ là gì?

– Hồ Chí Minh vẫn mãi là một người của sự đoàn kết và hài hòa. Người luôn coi sự đoàn kết trong ĐCS Việt Nam và sự đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân thế giới là điều vô cùng quý báu. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, người Việt Nam không cho phép để xảy ra sự chia rẽ dân tộc.

Thời khắc quan trọng đã đến trong quan hệ giữa Việt Nam và phong trào cộng sản thế giới. Một đất nước đang có chiến tranh sẽ cần sự hỗ trợ từ nhiều phía. Sau chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Kosygin đến Hà Nội vào tháng 2/1965, Liên Xô nhận thức được quy mô, tầm quan trọng của cuộc kháng chiến ở Việt Nam khi Mỹ bắt đẩu rải chất độc da cam, bom napalm, bom bi xuống miền Nam. Liên Xô đã quyết định giúp đỡ Việt Nam trên quy mô lớn, thông qua việc cung cấp các loại vũ khí, tên lửa đất đối không và nhiều trang thiết bị quân sự hiện đại khác. Trung Quốc cũng viện trợ cho Việt Nam những loại vũ khí hạng nhẹ, hỗ trợ hậu cần, quân tư trang và lương thực.

– Tình hình Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh qua đời như thế nào?

– Toàn thể dân tộc Việt Nam đứng sau vị lãnh tụ của họ. Người Việt Nam vừa trải qua cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968. Cuộc tấn công này có ý nghĩa chính trị to lớn đối với dư luận quốc tế. Việt Nam đã giành được thắng lợi về ngoại giao khi đưa vấn đề Việt Nam trở thành một vấn đề quốc tế. Dư luận công chúng Mỹ đã mất thăng bằng. Johnson đã không tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai. Nước Mỹ đã hiểu rằng, họ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tại Việt Nam.

 Theo ĐẤT VIỆT ONLINE

Nguon: Redsvn.net



#27
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách giải quyết vấn đề phát triển có tình có lý và trước bất cứ đối tượng, đối phương, đối địch với cách mạng là ai, là đế quốc thực dân gì, thì Người luôn có một cách ứng xử thích hợp vì sự tôn trọng những giá trị chung của nhân loại đó là tự do, bình đẳng, hòa bình và phát triển, vì tương lai của mỗi con người và mỗi dân tộc.Ho-Chi-Minh-2.jpg

Ho-Chi-Minh-1.jpg

Hồ Chí Minh với tư duy độc lập, tự chủ trên con đường tìm đường cứu nước, đầu những năm 20 của thế kỷ XX, đã sớm nhận ra quỹ đạo của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, cũng như rất nhiều dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc đều: “Nằm trong một thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết”.

Đây là nhận thức có tính chất tổng kết sau những năm đầu tìm hiểu khắp các châu lục về đời sống nhân dân lao động dưới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên phạm vi quốc tế.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm trên ngay trong những bài báo đầu tiên của Người khi bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân An Nam trên báo chí Pháp, cùng với sự kiện gửi đơn chính thức yêu cầu Chính phủ Pháp cần có cải cách dân chủ cho người An Nam ở Hội nghị Hòa bình tại Véc-xây năm 1919.

Việc Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhân dân An Nam gửi yêu sách đến Hội nghị Hòa bình của các nước đồng minh tại Véc-xây năm 1919, cũng chính thức đưa Nguyễn Ái Quốc trở thành người đại diện chính thức của nhân dân Việt Nam trước đại diện các thế lực thực dân cả ở thuộc địa và ngay tại nước Pháp.

Trên báo L’Humanité, ngày 2/8/1919, tác giả Nguyễn Ái Quốc viết: “Các nguyện vọng của chúng tôi nhằm vào các cải cách chủ yếu cho việc giải phóng chúng tôi và nhằm vào những quyền tự do mà nếu không có chúng, thì con người ngày nay chỉ là một kẻ nô lệ khốn nạn. Không có ai có thể phủ nhận rằng, nếu không có các quyền tự do ấy, thiết yếu cho việc truyền bá những tư tưởng và kiến thức mà đời sống hiện đại đòi hỏi, thì không thể trông mong tiến hành bất cứ một công cuộc giáo hóa nghiêm chỉnh nào”.

 

Ngoài việc công khai đòi hỏi những quyền tự do cơ bản của con người trong một xã hội dân chủ hiện đại, tác giả Nguyễn Ái Quốc lại luôn cho những nhu cầu ấy trên một nền tảng hiện thực mà người dân bản xứ đang phải trực diện đối mặt.

Việc phản ánh hiện thực cuộc sống khốn đốn của người bản xứ bị kìm hãm trong cảnh dốt nát bởi chính sách đần độn hóa, bị suy yếu bởi chịu nhiều thiếu thốn, nhiều thủ đoạn đầu độc của Nhà nước và các công ty đặc nhượng, họ sẽ tiếp tục luẩn quẩn trong một cái vòng thu hẹp quá đỗi.

Tuy nhiên, theo tác giả, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm đảo lộn châu Âu và xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quan trọng và văn minh chỉ có thể có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường. Mặt khác, là phi lý nếu nghĩ rằng, hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập với nhau. Nhưng người Nhật Bản nhờ Chính phủ khôn khéo của họ, có các phương tiện rất đầy đủ, được trang bị tốt để đấu tranh kinh tế, trong khi người An Nam – lại hoàn toàn là con số không, xét về mặt tiến bộ hiện đại, so với các láng giềng của họ: người Hoa, người Nhật, người Xiêm và cả người Ấn nữa.

Nguyễn Ái Quốc đặt câu hỏi cho chính sách thuộc địa của người Pháp là, phải chăng, Chính phủ Pháp tin rằng, đã đúng lúc, vì lợi ích chung, phải giải phóng dân bản xứ và giúp đỡ họ bằng tất cả phương tiện mình có trong tay, để họ tự chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh gay go mà họ sẽ đảm đương đối với người Nhật và những người nước ngoài khác?

Quả thật, cách tiếp cận vấn đề giải phóng dân bản xứ, phát triển và hội nhập quốc tế của các quốc gia dân tộc đã được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đặt ra một cách hết sức tự nhiên, hòa bình và tiến bộ mà nhân loại nhất định sẽ lựa chọn và trải qua, cho dù khoảng cách lịch sử là hàng trăm năm phát triển.

Với sự nghiệp đấu tranh cho tự do của đồng bào Việt Nam và độc lập cho Tổ quốc thân yêu, Hồ Chí Minh đương nhiên phải đương đầu với chính sách thuộc địa lỗi thời của Chính phủ Pháp, mà còn phải trực tiếp đấu tranh đối diện với các quan chức chính quyền thực dân từ “Bộ trưởng Bộ Thuộc địa” đến các “quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé” cả ở chính quốc lẫn thuộc địa. Trong hệ thống quan chức cai trị thuộc địa của Pháp ở Đông Dương, không thể không nhắc tới ông Anbe Xarô, nguyên toàn quyền Đông Dương rồi vào chức Bộ trưởng Bộ Thuộc địa của Thực dân Pháp thời kỳ bấy giờ, một nhân vật có những mối quan hệ đặc sắc giữa nhân vật đại diện chế độ Thực dân của Pháp với Nguyễn Ái Quốc, nhà yêu nước của nhân dân An Nam.

Trong các bài báo tấn công vào chế độ thuộc địa của chủ nghĩa tư bản Pháp, Nguyễn Ái Quốc có bài “Ông Albert Sarraut và Bản Tuyên ngôn nhân quyền” đăng trên báo Le Paria số 22, tháng 1/1924, là một tài liệu sinh động để chúng ta xác định nội dung tư tưởng và phong cách ứng xử rất văn hóa và đặc sắc của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Trước hết, bài báo của Nguyễn Ái Quốc đề cập lý do mà báo chí và sự “cuồng tín” của các nhà thực dân thường sử dụng chiêu bài quyền con người để che đậy những tội ác, những cuộc tàn sát dưới cái áo khoác khai hóa hay dưới danh nghĩa quyền con người mà chế độ thực dân đang hiện thực hóa trên các miền đất thuộc Pháp. Theo tác giả, chính vì quyền con người mà hàng triệu con người đã bị giết hại trong thời đại chiến. Cái quyền mà họ đã hy sinh vì nó, cùng với những xác chết thảm thương của họ, nay bị vùi sâu vào lãng quên.

 

Hồi đó, các chính khách tư sản còn gào to hơn cả tiếng đại bác cho khắp bốn phương gầm trời nghe: quyền! quyền! quyền! Nhưng lập tức, sau khi cuộc chém giết đã chấm dứt, lập tức sau khi tai họa đã qua, thì không ai còn nghe thấy nói đến cái con vật ấy nữa. Ở Versaille, ở Geneva, ở Bologna, cũng như ở Washington, quyền con người đã được thay thế bằng than đen, than đá, dầu hỏa, thuộc địa.

Và đây mới là điều Nguyễn Ái Quốc muốn nói tới, đó là “Một cái quyền khác ra đời, dưới một dạng khác, còn xấu xa hơn, ghê tởm hơn: quyền của kẻ mạnh”.

Theo tác giả, bằng cái quyền này, người ta muốn hủy diệt nước Nga cách mạng. Bằng cái quyền này, người ta muốn biến nước Đức thành một nghĩa địa và một bãi hoang. Bằng cái quyền này, người ta tìm cách chia nhau Trung Quốc. Và cũng bằng cái quyền này, người ta dìm thật sâu những dân các thuộc địa vào vòng nô lệ.

Tác giả, Nguyễn Ái Quốc có một nhận xét chua chát rằng, trước ông và cũng như ông thôi, người ta đã từng che đậy những tội ác, những vụ xoáy, những vụ tàn sát dưới cái áo khác khai hóa hay dưới danh nghĩa quyền con người, nhưng người ta còn làm những việc đó, với một chút liêm sỉ nào đó. Đằng này, cái con người của rượu và thuốc phiện ấy, cái ô che cho những băng của Phuốc và Bôđoanh ấy, trơ chẽn tuyệt vời, lại nói đến văn bản thiêng liêng nhất, cao quý nhất của Đại cách mạng Pháp. Không còn là một sự giả nhân giả nghĩa nữa. Và Nguyễn Ái Quốc cho rằng, ông Anbe Raxô đã mắc tội đại bất kính.

Tuy nhiên, nếu dừng lại theo trật tự lô-gic thông thường, việc mượn tiếng của Bản Tuyên ngôn nhân quyền để che đậy những tội lỗi của chế độ Thực dân ở khắp các xứ thuộc địa quả là một tội thật bất kính với công lao và giá trị vô giá về quyền tự do và công lý mà Đại cách mạng Pháp đã tạo ra bằng máu xương của nhân dân Pháp đã tạo lập trong lịch sử.

 

Do vậy, cũng từ cách tiếp cận đề cao giá trị bất biến của Bản Tuyên ngôn nhân quyền của Đại cách mạng Pháp, Nguyễn Ái Quốc lại dẫn độc giả tới một cách tiếp cận thật sự mới mẻ khi cho rằng: “Nghĩ cho lung”, thì tác giả đã mắc sai lầm khi không nhận ra tấm lòng cao cả và tinh thần quảng đại của ngài Bộ trưởng của chúng ta, khi nhắc lại Bản Tuyên ngôn đã làm cho Cộng hòa Pháp bất tử, ông Anbe Raxô chỉ muốn dùng một chiến thuật đường vòng để nhắc nhở dân chúng thuộc địa về với những nghĩa vụ chân chính của mình? Kêu gọi những dân tộc thuộc địa hãy đi theo vết chân vinh quang của tổ tiên ngài mà chiến đấu cho công cuộc giải phóng mình. Người ta sinh ra mãi mãi tự do và bình đẳng về quyền. Các quyền ấy là: tự do, tư hữu, an ninh và chống áp bức.

Tự do, chống áp bức, đó là những điều mà ngài Bộ trưởng muốn làm cho “những người anh em da màu của ngài” hiểu, những người anh em này tuy đang bị một đế quốc ghê tởm nhất áp bức một cách tàn tệ nhất, nhưng vẫn còn cứ lịm đi trong một giấc mê man triền miên.

Và để kết thúc bài viết của mình theo chủ đề, tác giả đưa ra một cách kết mà chỉ có ở những con người thật sự cách mạng theo tinh thần của Đại cách mạng Pháp: “Chúng ta, những người con của các thuộc địa, chúng ta sẽ là những tên thật hèn nhát, nếu chúng ta không nhất tề đáp ứng lời kêu gọi của ‘ông anh cả của chúng ta’: Có tôi đây!”.

Là một dân tộc yêu quý độc lập, tự do cho dân tộc mình đồng thời biết tôn trọng và yêu quý độc lập tự do của dân tộc khác, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh dân tộc Việt, Pháp dù phải trải qua chiến tranh để đi đến hòa bình luôn tự ý thức được rằng: “Người ta sinh ra mãi mãi tự do và bình đẳng về quyền” và là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chân lý của thời đại Hồ Chí Minh.

Từ trong cuộc đấu tranh đòi tự do cho đồng bào và độc lập cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, dù khi là người tự nguyện đứng lên đòi quyền tự lợi cho đồng bào với tư cách một người Việt Nam yêu nước, hay khi làm Chủ tịch nước Việt Nam, trước bất kỳ tình thế, thế lực nào của đế quốc thực dân, Hồ Chí Minh luôn thể hiện một tầm vóc của một nhà tư tưởng lỗi lạc đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng chính nghĩa của nhân dân đấu tranh và hướng tới một sự phát triển hòa bình chung cho dân tộc và nhân loại.

Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh thể hiện cách ứng xử văn hóa của con người với sự phát triển lên tầm văn minh của nhân loại. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng thấy Hồ Chí Minh chỉ ra một cách giải quyết vấn đề phát triển có tình có lý và trước bất cứ đối tượng, đối phương, đối địch với cách mạng là ai, là đế quốc thực dân gì, thì Hồ Chí Minh luôn có một cách ứng xử thích hợp vì sự tôn trọng những giá trị chung của nhân loại đó là tự do, bình đẳng, hòa bình và phát triển, vì tương lai của mỗi con người và mỗi dân tộc.

Theo BÁO ĐẦU TƯ

Nguon: Redsvn.net



#28
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Tướng Giáp và ba bức chân dung trên bìa tạp chí Time

Trong lịch sử tồn tại của mình, Tạp chí Time – tạp chí tin tức hàng tuần nổi tiếng của Mỹ – đã ba lần đưa hình ảnh chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên trang bìa cùng những bài viết gắn với các thời điểm khác nhau trong sự nghiệp của ông.

Vo-Nguyen-Giap-TIME.jpg

1. Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuất hiện lần đầu tiên trên trang bìa tạp chí Time vào ngày 17/6/1966, một năm sau khi Mỹ đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ ở miền Nam Việt nam.

Vo-Nguyen-Giap-TIME-1.jpg

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên trang bìa tạp chí Time ngày 17/6/1966.

Bài viết cho trang bìa đã dành nhiều dòng để kể về thân thế và sự nghiệp của tướng Giáp, với điểm nhấn là chiến thắng trước 12.000 quân Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Chiến thắng này khiến ông từ một vị tướng hầu như “vô danh” trên bản đồ quân sự thế giới trở thành vị chỉ huy hiện đại đầu tiên của một nước châu Á đánh bại đội quân xâm lược của thực dân châu Âu.

Trở lại với tính hình chiến trường miền Nam Việt Nam, để đối phó với chiến dịch “Tìm – diệt” của Mỹ, vào tháng 10/1965, tướng Giáp đã phát động một cuộc tấn công vào trại Lực lượng đặc biệt biên giới tại Plei Me, nằm cách Pleiku 30 dặm về phía Nam. Trong trận chiến kéo dài một tháng sau đó, quân đội của tướng Giáp đã giữ vững trận địa và kháng cự mãnh liệt, đưa số lính Mỹ chết lên đến 240 người trong một tuần, mức cao nhất từ khi Mỹ đưa quân vào Việt Nam tới nay. Bên cạnh đó, sự truy kích của quân Mỹ cũng gây nhiều tổn thất cho quân Giải phóng.

Bài báo đưa ra nhận địch, so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến hiện tại của tướng Giáp đang gặp nhiều khó khăn hơn bởi sự tham chiến của lực lượng “Kỵ binh bay” của Mỹ, với chiến thuật tấn công bằng các phi đội trực thăng có sức hủy diệt khủng khiếp. Điều này đã khiến một số nhà quan sát tự hỏi liệu tướng Giáp sẽ đưa lựa chọn nào cho cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam.

 

2. Chân dung tướng Giáp xuất hiện lần thứ hai trên bìa tạp chí Time vào ngày 9/2/1968, 10 ngày sau khi Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 được phát động.

Vo-Nguyen-Giap-TIME-2.jpg

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên trang bìa tạp chí Time ngày 9/2/1968.

Tiêu đề của ảnh trang bìa là “Những ngày chết chóc ở Việt Nam” với bài viết chính thuật lại nỗi kinh hoàng của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam, khi hơn 36.000 chiến binh Giải Phóng tấn công đồng loạt hàng trăm địa điểm, trải dài từ Quảng Trị cho đến đảo Phú Quốc ngoài khơi bờ biển đồng bằng sông Cửu Long.

Bài báo viết, “Không có mục tiêu nào là không thể, kể cả Tòa đại sứ Mỹ và trụ sở chính MACV (Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ) của tướng William Westmoreland tại Sài Gòn. Họ tiến công trong bộ đồ ngủ của nông dân lẫn  đồng phục quân đội Bắc Việt cùng lúc tại gần 40 thành phố lớn và thị xã”.

Chuẩn tướng John Chaisson thừa nhận: “Đây là thực tế chiến đấu trên chiến trường… Cuộc tấn công rất thành công này được phối hợp tốt đáng ngạc nhiên”. Người Mỹ đã bị sỉ nhục trong cuộc đột kích vào Đại sứ quán Mỹ bởi điều này chứng minh rằng gần ba năm bị truy lùng và bình định, quân Giải phóng vẫn có thể tấn công ở bất cứ nơi nào tại miền Nam Việt Nam.

“Một nước cờ ấn tượng. Không nghi ngờ gì về chiến lược đằng sau cuộc tấn công của Cộng sản là của Bộ trưởng Quốc phòng của Miền Bắc Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người đã đánh gục quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954. Cuộc tấn công nói chung mang tất cả các dấu hiệu không thể nhầm lẫn của một vị tướng tài năng”, bài báo nhận định.

3. Lần thứ ba tướng chân dung tướng Giáp xuất hiện trên bìa tạp chí Time là vào ngày 15/5/1972. Bài viết cho trang bìa mang tiêu đề “Nam Việt Nam: bước đi táo bạo cho chiến thắng của Hà Nội”.

Vo-Nguyen-Giap-TIME-3.jpg

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên trang bìa tạp chí Time ngày 15/5/1972.

Bài viết mở đầu bằng cảnh hoảng loạn của quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại Huế sau khi Quảng Trị thất thủ trong chiến dịch mở màn cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1972 của quân Giải phóng.

 

Bài báo viết: “Cách Quảng Trị 24km về phía Nam, tại thành phố Huế chật cứng người di tản, các cuộc tháo chạy đã trở thành bạo loạn. Quân nhân thiếu ăn trong hai ngày đã cướp phá các cửa hàng vào giữa ban ngày. Vào ban đêm, các nhóm lính đào ngũ nồng nặc hơi men đụng độ và xả súng vào nhau ngay trên đường phố.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đạt được một chiến thắng dễ dàng ở Quảng Trị. Chỉ sau 5 ngày chịu pháo kích, thành Quảng Trị đã bị các sĩ quan bỏ rơi. Những người lính chỉ đơn giản là tan vỡ và tháo chạy, để lại đằng sau xe tăng, xe thiết giáp và pháo cối của mình. Ngay lập tức, những người Cộng sản thiết lập một chính quyền cách mạng trong thành phố”.

Trong bối cảnh Mỹ chỉ còn 65.000 quân ở miền Nam Việt Nam và chỉ giữ vai trò phòng thủ, bài báo đặt ra câu hỏi về chính sách xây dựng quân đội miền Nam Việt Nam của Mỹ, với chi phí khổng lồ về nhu yếu phẩm và quân trang để tự mình chiến đấu với quân Giải phóng. Tổng thống Thiệu, và thậm chí cả sự hiện diện của Mỹ cùng ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam cón thể tồn tại được bao lâu nếu hứng chịu thêm một thất bại tương tự?

Theo ĐẤT VIỆT ONLINE

Nguon: Redsvn.net



#29
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Nghệ thuật thu phục lòng người của các vĩ nhân lịch sử Việt Nam

Sự thành công và thành danh của các vĩ nhân lịch sử Việt Nam ngoài yếu tố nhân cách, tài năng, còn là sự sáng suốt mưu lược trong nhận thức và hành động để thu phục nhân tâm.

3a3e44789344f1a13876b6f3f79b7a88.jpg

Tượng đài vua Lý Thái Tổ ở thành phố Bắc Ninh.

Sự thành công và thành danh của các danh nhân trong sử Việt, ngoài yếu tố nhân cách và tài năng đã được họ phát huy cao độ để giải quyết những yêu cầu lịch sử của thời cuộc, thì còn là sự sáng suốt mưu lược trong nhận thức và hành động để thu phục nhân tâm, tập hợp lực lượng, tạo niềm tin cho dân chúng về sự cần thiết phải đi theo hay ủng hộ bậc vĩ nhân của thiên hạ. Từ đó, nhiều mưu hay kế lạ đã được họ triển khai dưới những dạng thức độc đáo và thu được hiệu quả ngoài sức tưởng tượng.

Lý Thái Tổ: Đốt chài lưới, thả tù nhân, biểu thị nền nhân chính của tân triều

Lý Thái Tổ là Hoàng Đế sáng nghiệp triều Lý (1009-1226). Tháng 11/1009, được sự hậu thuẫn của lực lượng Phật giáo trong nước và sự tôn phò của bá quan, ông được đưa lên ngai vàng, thay thế triều Tiển Lê trị vì đất nước.

Lý Thái Tổ lên ngôi giữa lúc tình hình xã hội khá rối ren do cách cai trị kiểu bạo chính của Lê Ngọa Triều (Hoàng Đế cuối cùng nhà Tiền Lê) gây ra. Bấy giờ, nhân dân nhiều nơi đói khổ, nhiều địa phương xa kinh đô không thần phục triều đình, trong ngục tù đầy rẫy phạm nhân. Lý Thái Tổ là người nhân từ độ lượng, vừa có uy vừa có đức trong mắt người đương thời. Nay ông làm vua thiên hạ thì sẽ trị nước như thế nào và sẽ làm gì để xã hội được thái bình yên vui? Đó là vấn đề lớn mà người trong nước ai cũng ngóng trông.

Lý Thái Tổ là người cao minh, ông biết rõ người dân đang trông đợi điều gì. Sau khi ban thưởng, phong chức tước cho triều thần và ban chiếu đại xá, ông đã có hai quyết định quan trọng. Một là hạ lệnh thu gom một lượng lớn chài lưới rồi đem đốt ngay giữa hoàng thành. Hai là thả ngay 28 tù nhân người thiểu số bị Lê Ngọa Triều bắt trước đây, cấp áo quần lương thực đầy đủ để họ về quê.

Hai hành động trên dù nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn. Đốt bỏ chài lưới, Lý Thái Tổ muốn tỏ rõ tính khoan dung, nhân trị của tân triều. Không chỉ con người được giải phóng mà đến các loài chim cá cũng được giải thoát. Việc trả tự do cho 28 người Man cũng là cách nêu cao đường lối nhân chính của triều đại mới. Hành động này ở một mức độ nào đó còn góp phấn xoa dịu sự bất bình, chống đối triều đình của các tộc người thiểu số và các địa phương xa trong nước.

Với hai hành động nhỏ nhưng đầy toan tính sâu xa, Lý Thái Tổ đã bày tỏ đường lối trị nước một cách nhẹ nhàng, cụ thể và thuyết phục. Muôn dân đồng lòng đi theo tân triều. Nhờ đó, sau 18 năm trị vì, ông đã tạo lập được nền móng vững chắc cho sự hưng thịnh và tồn tại dài lâu của triều Lý trong lịch sử. Đánh giá về sự nghiệp của Lý Thái Tổ, sử gia Ngô Sĩ Liên thế kỉ XV đã hết lời ngợi khen:

 

“Có đức tất có ngôi, bởi vì lòng người quy phụ. Lại nhằm sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược, mà Lý Tổ thì vốn tiếng khoan nhân, trời tìm người làm chủ dân, dân theo về người có đức, trừ Lý Tổ ra thì còn ai hơn nữa? Xét ra vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp kẻ phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ yên lành, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương” (Đại Việt sử kí toàn thư).

Trần Quốc Tuấn: Hành động nhỏ khiến anh em đoàn kết, triều đình tin tưởng

Đại danh tướng, anh hùng chống Mông Nguyên Trần Quốc Tuấn xuất thân là hoàng tộc cao quý, cháu gọi vị Hoàng Đế mở nghiệp nhà Trần (Trần Thái Tông) bằng chú. Dẫu vậy, sự nghiệp của ông không được suôn sẻ ngay từ đầu, mà gặp những trắc trở khó khăn bởi mối ân oán do đời trước để lại.

Thân phụ của Trần Quốc Tuấn – An Sinh Vương Trần Liễu – suốt đời ôm theo mối hận bị em trai (Trần Thái Tông) cướp vợ. Trước khi mất, ông cầm tay Trần Quốc Tuấn dặn đi dặn lại, rằng nhất định phải giành lấy thiên hạ, có thế ông mới nhắm mắt được. Trần Quốc Tuấn ghi nhớ kĩ nhưng không cho lời cha là phải.

Trần Quốc Tuấn được Trần Thái Tông phong tước Hưng Đạo Vương, đối đãi trọng hậu. Ông cũng dốc lòng phò tá nhà vua. Nhưng một số đại thần triều đình vẫn không khỏi lo ngại, sợ rằng Trần Quốc Tuấn sẽ tìm cách trả thù cho cha. Ngay cả hoàng tử thứ ba của Thái Tông là Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải cũng không ưa gì ông anh con nhà bác này.

Năm 1285, giặc Mông Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông (con Trần Thái Tông) phong Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế chỉ huy quân đội cả nước. Trần Quang Khải được phong làm Thượng Tướng Thái Sư, địa vị trong quân đội chỉ kém Trần Quốc Tuấn. Vấn đề là giữa hai người anh em con chú con bác này có hiềm khích với nhau, liệu rằng họ có đồng lòng chung sức chống thù không? Vì sự an nguy của xã tắc, Trần Quốc Tuấn thấy oán thù nên cởi không nên kết, vì thế ông quyết định làm hòa với Trần Quang Khải. Bằng cách nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư kể lại:

“Có một hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp đến, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng Tướng”. Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc Công tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà”.

Tự tay tắm cho Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đã chân thành bộc lộ ý muốn xóa bỏ hiềm khích giữa đôi bên. Trần Quang Khải thông minh nhận rõ sự việc và cũng không hẹp bụng chối từ. Sau lần ấy, hai người rất thân thiết với nhau, cùng dốc chí chống giặc giữ nước.

Cũng từ khi nắm quyền Quốc Công Tiết Chế, Trần Quốc Tuấn thường theo hầu bên cạnh vua Trần. Ông thường cầm theo cây gậy có sắt nhọn bịt ở đầu. Các quan trông thấy ai cũng nghi ngại, đề phòng, sợ răng ông nhớ mối thù cha mà dùng gậy làm hại nhà vua. Trần Quốc Tuấn tinh ý nhận ra thái độ ngờ hoặc ấy nên đã tháo bỏ sắt nhọn, chỉ đem theo cây gậy không. Từ đó triều thần hết nghi ngờ và càng tin tưởng vào tấm lòng trung quân ái quốc của ông.

Chỉ với hai hành động nhỏ, Trần Quốc Tuấn vừa chứng tỏ được lòng thành, cởi bỏ mối cừu thù đời trước, vừa tạo được đồng tâm nhất trí nơi nội bộ triều đình và hoàng thất để tạo nên một đầu não chỉ huy kháng chiến đoàn kết và đầy sức mạnh, kiên quyết đối đầu với tham vọng xâm lăng đến từ phương Bắc.

 

Trần Nhân Tông: Câu nói khuyến tiến khiến ba quân thêm hăng hái

Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293) là Hoàng Đế thứ ba của nhà Trần. Ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi để lên làm Thái Thượng Hoàng rồi cả hai cha con cùng chung tay điều khiển chính sự.

Dưới thời Trần Nhân Tông, quân dân nhà Trần đã phải hai lần chống giặc Mông Nguyên xâm lược vào năm 1285 và 1288. Năm 1285, 50 vạn quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta. Trần Nhân Tông cùng triều đình tạm thời bỏ kinh thành, thực hiện cuộc rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, chờ cơ hội phản công. Khi thời cơ đến, quân nhà Trần tiến hành tổng phản kích trên tất cả các mặt trận. Trần Nhân Tông cùng vua cha cũng thân chinh cầm quân.

Tháng 6/1285, dưới sự chỉ huy của Trần Nhân Tông, quân Trần đánh trận Tây Kết (Hưng Yên) lần thứ hai. Quân Nguyên do hai đại tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi cầm đầu. Hai bên giao chiến kịch liệt. Cuối cùng quân Nguyên đại bại. Toa Đô bị chém đầu, Ô Mã Nhi trốn biệt về nước.

Thủ cấp viên tướng giặc được dâng lên. Chính vào lúc nhìn thấy đầu kẻ thù, Trần Nhân Tông đã có lời nói và hành động vừa thể hiện sự nhân đức của bậc đế vương vừa mang dụng ý khuyến khích tinh thần quân sĩ rất rõ. Ông nói: “Người làm tôi thì nên như thế này” và cởi áo đang mặc bọc lấy cái thủ cấp, sai người đem chôn tử tế.

Toa Đô là viên tướng giặc, nhưng đối với vua Nguyên hắn là một trung thần hết lòng phụng sự chủ cho đến chết. Thời ấy, vua là chủ của nước, trung với vua là nghĩa lớn của người làm tôi. Trần Nhân Tông cảm tấm lòng trung của Toa Đô và cũng muốn khuyến tiến tướng sĩ nên mới nói ra câu ấy. Chính nhà sử học Ngô Sĩ Liên sống sau đó 200 năm cũng nhận thấy dụng ý ấy và có lời bình luận rằng:

 

“Than ôi! Câu nói ấy của vua chẳng phải là câu nói của đế vương ư? Nói rõ đại nghĩa để cho người bề tôi muôn đời biết trung với vua chết vì nước là vinh, tuy chết mà tiếng không mất, quan hệ lớn lắm. Huống chi lại cởi áo khiến khâm liệm mà chôn. Có thể phấn khởi khí sĩ tốt để trừ giặc mạnh là phải lắm” (Đại Việt sử kí toàn thư).

Lê Lợi, Nguyễn Trãi: Khôn khéo tạo dư luận về mệnh đế vương của người thủ lĩnh đất Lam Sơn

Đầu thế kỉ XV, giặc Minh xâm lược và đô hộ nước ta. Nhân dân nhiều nơi vùng dậy khởi nghĩa nhưng đều bị đàn áp đẫm máu. Người thủ lĩnh đất Lam Sơn (Thanh Hóa) là Lê Lợi không vì thế mà khiếp sợ, đêm ngày vẫn đau đáu suy tư tìm cách cứu nước diệt thù.

Lê Lợi là thủ lĩnh của một vùng, thuộc hạ và những người ủng hộ không phải là ít, thế lực không phải là quá nhỏ, nhưng chỉ bấy nhiêu mà đương đầu với quân Minh đông đảo và hung bạo, lại đã chiếm được cả đất nước thì có khác gì lấy trứng chọi đá? Nhưng nếu vì thực lực nhỏ yếu mà kêu gọi nhân dân cùng Lê Lợi đứng dậy thì liệu có mấy ai theo, khi mà tiếng tăm của ông chưa thể bao trùm cả nước, mà tai mắt quân thù có khắp nơi, không may việc bại lộ thì đại sự khó thành. Do vậy, việc cần thiết là phải tìm cách nâng cao uy tín, hình ảnh của Lê Lợi một cách nhanh chóng và gây được ấn tượng mạnh với nhân dân, để họ hoàn toàn tự nguyện đi theo ông. Trên cơ sở cân nhắc như vậy, Lê Lợi và những người thân tín đã vạch ra một kế hoạch nhằm ngấm ngầm tuyên truyền trong dân về chân mệnh đế vương của ông, về thiên ý đã lựa chọn ông là vị cứu tinh của đất nước.

Kế hoạch ấy biểu hiện ra bên ngoài bằng những sự việc ngỡ như là ngẫu nhiên tình cờ nhưng lại có liên hệ với nhau, khiến người ta phải tin theo và tự động loan truyền. Kế hoạch ấy được sách Đại Việt thông sử (Thái Tổ thượng) chép lại dưới dạng câu chuyện như sau:

 

“Thời ấy người phường chài ở sách Mục Sơn là Lê Thận, đêm nào cũng thấy khoảng sông Lam Xuyên có luồng ánh sáng như bó đuốc cháy, rồi hơn một tháng sau, bỗng chài được một thanh sắt dài hơn một thước, hình tựa thanh đao cũ, đem về để trong nhà, ngay hôm ấy Hoàng Đế (chỉ Lê Lợi) đến nhà y, thấy trong nhà tối có một luồng ánh sáng, liền tới chỗ đó lấy thanh đao đem về, về đến nhà, không phải mài mà sáng như đao mới, nhận thấy có hàng chữ triện khắc trên thân đao, biết là một thanh bảo kiếm. Đêm hôm sau, có trận mưa gió, sáng ra, thấy trong vườn rau có lốt chân thần in trên lá rau, Hoàng Đế sai người vẽ hình vết chân ấy. Ngày hôm sau, Hoàng Hậu (vợ Lê Lợi) ra vườn hái rau, đến chỗ cây rau có hình bàn chân, bỗng được một quả ấn báu, bề dài bề rộng ngay ngắn, mặt quả ấn khắc mấy chữ lối triện, trên quả ấn khắc đích họ tên Hoàng Đế, nhận kĩ mới rõ. Hoàng Đế biết rõ bảo vật của trời đất ban cho, bèn cúi đầu lạy tạ. Ngày hôm sau, bỗng được cái chuôi thanh kiếm ở cây đa, rửa sạch đất cát đi, thấy có khắc hình con rồng và con hổ, và hiện ra hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào thanh kiếm đã bắt được hồi trước, vừa vặn không sai tí nào, càng tin là vật thần cho”.

Từ đó tin tức Lê Lợi được trời trao cho ấn kiếm không cánh mà bay, được nhân dân Lam Sơn và nhiều vùng lân cận không ngừng bí mật truyền tai nhau. Xã hội thời ấy còn rất mê tín, rất tin vào những việc liên quan đến thánh thần, thiên mệnh nên không mấy ai nghi ngờ việc Lê Lợi nhận được mệnh trời. Bởi đó, dân chúng nhiều nơi đã hồ hởi theo về với Lê Lợi, nhiều hào kiệt tài cao chí cả cũng hăm hở tìm đường đến Lam Sơn.

Trong số những người đến với Lê Lợi có Nguyễn Trãi. Là người thông minh mưu lược, kiến văn quảng bác, Nguyễn Trãi tất nhiên biết rõ sự thật phía sau câu chuyện ấn và kiếm kia. Nguyễn Trãi cũng biết rõ đó là điều phải làm để quy tụ lực lượng chờ ngày phất cờ nổi dậy. Do vậy ông rất tán đồng cách làm của Lê Lợi và sau đó cùng với Lê Lợi bàn tính rồi triển khai một số hành động tiếp theo nhằm tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn hơn, làm gia tăng niềm tin cho trăm họ về chân mệnh thiên tử của Lê Lợi. Sách Tang thương ngẫu lục cho hay:

Nguyễn Trãi “lấy mỡ viết khắp lá cây trong rừng: Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Sâu và kiến ăn mỡ đục thành nét chữ. Kẻ đi kiếm củi thấy thế cho là chuyện thần linh. Người nọ bảo người kia, nhân thế theo về ngày một nhiều”.

Bởi mưu kế đó của Nguyễn Trãi, số người theo về dưới trướng Lê Lợi ngày càng đông, đủ cả anh tài khắp mọi miền đất nước, thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau. Đó là cơ sở đế đến năm 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai, thực chất là buổi ra mắt bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa trong tương lai dưới dạng đặc biệt. Ngày mùng hai tết Mậu Tuất (1418), khi mọi thứ đã sẵn sàng, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, chính thức giương lên ngọn cờ bình Ngô đầy chính nghĩa.

Lý Thái Tổ, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Trãi cùng nhiều nhân vật xuất chúng khác trong lịch sử là những người đã biết căn cứ vào đòi hỏi cụ thể của thế cuộc để vận dụng trí mưu, xếp đặt hành động, thi hành kì mưu dị kế, bề ngoài có vẻ giản đơn tự nhiên nhưng chứa đựng những tính toán và mục đích cao xa khôn ngoan. Mục đích đạt thành chẳng những giúp họ dần vươn đến vinh quang của sự nghiệp mà còn có tác dụng thúc đẩy sự tiến lên của lịch sử một cách khả quan rõ rệt.

Theo KIẾN THỨC

Nguon: Redsvn.net



#30
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Trần Khát Chân và chiến công đánh tan quân Chiêm Thành

Đánh tan quân Chiêm Thành, cứu nhà Trần khỏi nguy cơ ngoại bang xâm chiếm, là chiến công hiển hách của danh tướng Trần Khát Chân.

Den-Lu-Giang.jpg

Đền Lừ ở quận Hoàng Mai, Hà Nội, một nơi thờ danh tướng Trần Khát Chân.

Theo” Đại Việt sử ký toàn thư”, năm Kỷ Tỵ (1389), vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga lại dẫn quân tiến đánh kinh thành Thăng Long. Hồ Quý Ly chống cự nhưng trúng kế của giặc, nhanh chóng thất bại, thiệt hại nặng nề, phải bỏ chạy thục mạng.

Vua Chiêm Thành tử trận, giặc ngoại xâm tan vỡ

Lúc đó, Trần Khát Chân (1370-1399, người làng Hà Lãng, phủ Vĩnh Ninh, nay là xã Hà Lương, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), chỉ là quan võ cấp thấp, trẻ tuổi. Vì tình thế bí bách, thượng hoàng Trần Nghệ Tông buộc phải sai ông cầm quân Long Tiệp đánh trả.

Quân Trần xuất phát từ sông Lô, đến Hoàng Giang (Ninh Bình) gặp quân Chiêm Thành. Quan sát thấy địa hình khó tổ chức đánh trả, Trần Khát Chân bèn lui về giữ sông Hải Triều (Thái Bình).

Chế Bồng Nga cùng hàng tướng Trần Nguyên Diệu dẫn hơn trăm chiến thuyền đến dò xét cách bài binh bố trận của quân Trần.

Khi chiến thuyền Chiêm Thành chưa kịp ổn định hàng ngũ, tên thuộc hạ Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, sợ bị giết, đã chạy sang trại quân Trần. Hắn chỉ vào chiến thuyền sơn màu xanh, nói với Trần Khát Chân đó là nơi Chế Bồng Nga ở.

Trần Khát Chân liền hạ lệnh cho quân sĩ nhả đạn thẳng vào thuyền vua Chiêm. Chế Bồng Nga trúng đạn chết ngay tại trận, quân địch tan vỡ. Trần Khát Chân sai giám quân Lê Khắc Khiêm về Thăng Long báo tin thắng trận.

Theo một số tài liệu lịch sử, lúc đó canh ba, thượng hoàng đang ngủ say, giật mình tỉnh giấc, ngỡ là quân giặc đã đánh vào tận ngự doanh. Sau biết tin thắng trận, vua vui mừng, cho gọi các quan đến. Trần Khát Chân được phong làm Long Tiệp Phụng Thần Nội vệ Thượng tướng quân, tước Vũ Tiết Quan Nội Hầu.

Thượng đẳng phúc thần

Trần Khát Chân thuộc dòng dõi của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng – người có công đánh đuổi quân Nguyên xâm lược, nổi tiếng với câu nói: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.

Từ nhỏ, ông nổi tiếng ham học, có tiếng văn võ song toàn. Năm 1388, Trần Khát Chân thi đỗ thái học sinh (tiến sĩ), được triều đình phong là tướng chỉ huy đội quân Long Tiệp.

Bấy giờ, triều Trần bắt đầu suy vi. Chiến tranh liên miên, khốc liệt với các lân bang, đặc biệt là Chiêm Thành, làm cho tiềm lực quốc gia suy kiệt. Các vua cuối triều Trần thời này không giỏi, thường bị quần thần lấn át. Chiến thắng của tướng Trần Khát Chân khiến cho quân Chiêm Thành phải lui binh nhưng cũng khó cứu vãn được sự sụp đổ của nhà Trần sau đó.

Quốc gia suy yếu, vua bất tài, Hồ Quý Ly ngày một chuyên quyền, mưu cướp ngôi của họ Trần ngày càng lộ rõ.

Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, mùa hè năm 1399, Hồ Quý Ly tổ chức hội thề trên đỉnh núi Đốn Sơn (Thanh Hóa), Trần Khát Chân và một số thân đảng tính chuyện ám sát, trừ hậu họa. Việc không thành, Trần Khát Chân, cùng phe cánh bị Hồ Quý Ly tiêu diệt, gia đình ông gặp họa lớn.

Dù không thể bảo vệ được cơ đồ nhà Trần, bản thân và gia đình bị sát hại, với những chiến công cùng tấm lòng trung nghĩa, ông được sử sách ca ngợi, xem là một trong những danh tướng tiêu biểu của triều Trần và nước Việt.

Các triều đại phong kiến về sau đều có sắc phong cho Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hạng làm Thượng đẳng phúc thần.

Có tới 29 làng xã khác ở Thanh Hóa, kinh thành Thăng Long từng lập đền thờ ông. Tên Trần Khát Trân được dùng để đặt cho những con đường ở một số địa phương của nước ta.

.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN

Nguon: Redsvn.net



#31
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Chuyện lạ về hai vị vua đánh hổ nổi danh sử Việt

Khi nhắc tới chuyện đánh hổ, người đời thường nghĩ đến nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ Hử mà không biết rằng ở nước ta chuyện đánh hổ không phải là hiếm. Truyền tụng về hai vị vua nước Việt đánh hổ là một minh chứng rõ nhất cho điều đó.

7e7c5833c56758e41bc684c0c06dda24.jpg

Mai Thúc Loan đánh hổ cứu mẹ

Mai Thúc Loan tên thật là Mai Phượng, tự là Thúc Loan, quê ở làng Mai Phụ, xứ Thiên Lộc, thuộc Hoan Châu (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Sau gia đình ông di cư về vùng Ngọc Trường, đất Sa Nam, cũng thuộc Hoan Châu (nay là làng Ngọc Trừng, xã Nam Thái, huyện Nam Đàn, Nghệ An) và sinh ra Mai Thúc Loan ở đây.

Ông xuất thân trong một gia đình nghèo làm nghề muối ở ven biển; theo dã sử cha của Mai Thúc Loan tên là Mai Sinh, thân mẫu là Vương Thị. Hai người mất đi khi ông mới hơn 10 tuổi.

Truyền rằng vì nhà nghèo nên từ thuở nhỏ Mai Thúc Loan đã phải làm việc giúp cha mẹ đỡ đần việc nhà. Một lần cùng mẹ vào rừng kiếm củi, bất ngờ có một con hổ lớn lông vàng chồm ra ngoạm lấy cổ bà mẹ định tha đi; cậu bé họ Mai nghe tiếng thét của mẹ liền lao đến dang tay chém mạnh một nhát rìu vào đầu hổ, con hổ dữ tuy bị chém đòn thí mạng phải buông mồi nhưng vẫn nhảy tới tát mạnh vào kẻ tấn công. Mai Thúc Loan nhanh nhẹn tránh được rồi dồn sức dùng rìu chém tiếp một nhát, con hổ bạt vía cụp đuôi bỏ chạy vào rừng với vệt máu từ vết thương lớn trên người.

Người mẹ thoát khỏi nanh vuốt của hổ nhưng vì vết thương trên cổ quá nặng nên đã qua đời, Mai Thúc Loan trước đã mồ côi cha nay mất cả mẹ, may mắn là một người bạn của cha tên là Đinh Thế đã cưu mang, nuôi dạy ông, đến khi Mai Thúc Loan trưởng thành đã gả con gái là Đinh Thị Ngọc Tô. Chính người vợ này và gia đình bà sau này đã giúp đỡ Mai Thúc Loan rất nhiều trong việc chuẩn bị lực lượng dấy cờ khởi nghĩa.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn cho biết: “Năm Nhâm Tuất [722] (Đường Huyền Tông, Khai Nguyên năm thứ 10),… Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế”, hoặc như sách Việt sử tiêu án viết ngắn gọn: “Người châu Hoan là Mai Thúc Loan giữ châu, xưng là Hắc Đế”,…

Châu Hoan xưa là một vùng đất rộng lớn, tương ứng với hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay; sau khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, vị vua đánh hổ Mai Thúc Loan thiết lập chính quyền độc lập, xây dựng kinh đô ở vùng Sa Nam (nay thuộc Nam Đàn, Nghệ An), đặt tên kinh đô là Vạn An như một cách đối chọi lại với kinh đô Trường An của nhà Đường rồi xưng làm hoàng đế.

Sử sách viết về Mai Thúc Loan thường gọi ông là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai) nguyên do là ông có nước da màu đen. Nhiều tài liệu dã sử, truyền thuyết, thần tích đều viết tương tự như vậy, thí dụ như trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục có đoạn chép: “Người Mai Phụ, huyện Thiên Lộc, thuộc Hoan Châu, bây giờ thuộc huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thúc Loan người đen lắm nên người Hoan Châu gọi là Hắc Đế”. Riêng sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh thì viết: “Mai Thúc Loan bèn đem quân chiếm châu thành, chia quân đóng giữ. Quân thần đến mừng đều xin Mai Thúc Loan lên ngôi báu. Mai Thúc Loan bèn lên ngôi hoàng đế ở phía nam Hương Lãm, tự cho mình là đức “thủy”, xưng là Hắc Đế”. Theo thuyết Ngũ hành, Dịch lý thì màu đen tượng trưng cho nước, mà Mai Thúc Loan vốn xuất thân ở gia đình nấu muối vùng ven biển nên có thể ông tự cho là mang tính chất của nước.

Trong thời kỳ chống ách đô hộ thời Bắc thuộc, Mai Thúc Loan là người thứ ba sau Lý Bí (Lý Nam Đế) và Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đế) xưng đế. Về sau tuy cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo bị thất bại, nhưng công tích và danh tiếng vẫn còn vang mãi, đúng như sách Việt giám thông khảo tổng luận viết năm Giáp Tuất (1514), đã đánh giá như sau: “Mai Hắc Đế nổi lên từ châu Hoan, căm giận ngược chính của Sở Khách, cất quân để đánh, phía Nam giữ đất Hải Lĩnh, phía Bắc chống lại nhà Đường, có thể gọi là bậc vua hào kiệt”.

Sách Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn tóm lược rằng:

Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công.
Vận đời còn chửa hanh thông,
Nước non để giận anh hùng nghìn thu.

Phùng Hưng diệt hổ giúp dân lành

Phùng Hưng, tên tự là Công Phấn, tên hiệu là Cự Lão, quê ở xã Cam Lâm, thuộc huyện Phúc Lộc, xứ Đường Lâm (nay thuộc làng Đường Lâm, TX. Sơn Tây, Hà Nội). Ông xuất thân từ gia đình dòng dõi cự tộc, nhiều đời làm hào trưởng đất Đường Lâm, cha tên là Phùng Hạp Khanh; thân mẫu tên Sử Thục Nương là người đảm lược, có chí lớn.

Đến tuổi trưởng thành, Phùng Hưng nối nghiệp cha làm hào trưởng Đường Lâm; ông cùng hai em là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt), âm thầm nuôi chí lớn đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại giang sơn.

Phùng Hưng là một người có sức khoẻ khác thường, rất chuộng nghĩa khí, thường hay giúp đỡ kẻ khó; một dạo ở vùng Đường Lâm bỗng xuất hiện một con hổ dữ gây hại rất nhiều cho người và gia súc; phường săn đã được huy động tìm cách diệt hổ nhưng không được bởi đó là con hổ rất tinh khôn. Để diệt hổ dữ cứu dân lành, Phùng Hưng đã nghĩ ra kế hay, ông làm một bù nhìn bằng rơm rồi đặt ở nơi hổ thường xuất hiện. Khi thấy có dáng người, con hổ liền lao đến cắn xé nhưng đó chỉ là rơm với rơm. Tiếp đó Phùng Hưng lại đặt một bù nhìn rơm khác ở đúng chỗ đó; sau nhiều lần bị mắc lừa, con hổ không còn chú ý đến người rơm nữa.

 

Một hôm Phùng Hưng cởi trần, đóng khố, trát bùn kín khắp người để làm mất đi mùi hơi người; sau đó ông tới nơi thường đặt bù nhìn rơm. Khi con hổ xuất hiện, lúc nó đi qua thì bất ngờ Phùng Hưng xông tới quặp chặt lấy cổ hổ, sau một hồi vật lộn, lựa thế thuận lợi ông đã giáng một cú đấm cực mạnh làm vỡ sọ con hổ.

Danh tiếng vị hào trưởng Đường Lâm một mình đánh chết hổ dữ ngày càng bay xa khiến anh hùng, nghĩa sĩ khắp nơi nô nức tìm đến tỏ lòng khâm phục và kết thân. Đây chính là cơ hội thuận lợi để Phùng Hưng liên kết, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của nhà Đường.

Năm Tân Mùi (791) cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng giành được thắng lợi, ông lấy phủ đô hộ Tống Bình đổi làm kinh đô triều đại của mình và được dân chúng suy tôn là Bố Cái Đại Vương. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca viết rằng:

Đường Lâm mới có Phùng Hưng,
Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào.
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tình.
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiêu.
Nhân phủ trị mở ngôi triều,
Phong Châu một giải nhiếp điều mấy niên.
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.

Cầm quyền được mấy năm thì Phùng Hưng qua đời, các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên đều ghi rằng vua “đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết”; sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Phùng Hưng vào ở trong phủ lị, được ít lâu thì mất”. Trong khi đó sách Việt điện u linh dẫn lại sách Giao Châu ký lại cho biết: “Phùng Hưng vào phủ Đô hộ coi việc nước được 7 năm thì mất”; sách Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện cũng viết là ông làm vua được 7 năm.

Thần tích làng Thịnh Hào (nay thuộc khu vực Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội) nơi thờ Phùng Hưng làm Thành hoàng viết: “Phùng Hưng vào thành, chiếm cứ phủ trị mà xưng vương, không được bao lâu Phùng Hưng ốm chết”…Sau khi ông qua đời, thi hài được an táng tại phía Tây đô thành Tống Bình (lăng mộ nay vẫn còn, nằm trên khu vực đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội).

Đánh giá về công lao, sự nghiệp của Phùng Hưng, sách Việt giám thông khảo tổng luận bình rằng: “Phùng Bố Cái là người anh hào ở Đường Lâm, ghét sự tàn ngược của Chính Bình, anh em thừa thời trỗi dậy, cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công, có thể gọi là vị vua nhân hậu”.

Mối quan hệ ít biết giữa Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại vương

Không chỉ lưu danh với câu chuyện đánh hổ mà hai vị vua Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) và Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) còn để lại dấu son trong lịch sử dân tộc; và một điều thú vị ít ai biết rằng giữa họ có những mối quan hệ nhất định.

Cha của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế, sau khi triều Mai tan vỡ, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở thành một người có thế lực lớn.

Theo thần tích ở đình làng Hòa Mục (nay thuộc phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội) thờ Thành hoàng là bà Phạm Thị Uyển, quê ở trang Thọ Xương, quận Nam Xương, đất Đại La (nay thuộc khu vực nhà Thờ Lớn, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội).

Cha của Phạm Thị Uyển là Phạm Huyên còn gọi là Phạm Khuyên, hiệu là Minh Dực, mẹ hiệu là Diệu Hoa, tên thật là Phùng Thị Thảo (bà còn có tên là Phùng Thị Thạo Hoa), chị gái của Phùng Hưng. Truyền rằng khi Mai Thúc Loan đem quân ra đánh phủ đô hộ, Phùng Hạp Khanh cùng nhiều hào kiệt xứ Bắc đã dẫn theo thuộc hạ tiếp ứng, hạ thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Qúy trọng người anh hùng đã cứu đất nước thoát khỏi ách nô lệ, Phùng Hạp Khanh đã đem cháu gái gả cho Mai Thúc Loan; bấy giờ Phạm Thị Uyển vừa tròn 18 tuổi. Như vậy nếu theo tư liệu này thì Phùng Hưng là cậu vợ của Mai Thúc Loan.

Ngoài ra bà Phạm Thị Uyển còn có hai người em trai là Phạm Miện và Phạm Huy; hai người sau này đều là các danh tướng trong cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Và cuối cùng, cuộc khởi nghĩa do Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) lãnh đạo được coi là sự tiếp nối sự nghiệp của Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan); có câu đối ca ngợi ơn đức, uy vũ và công tích của ông có nội dung như sau:

Thanh chấn Lý Đường, Thuận Đức niên gian uy Bắc khẩu,
Vận thừa Mai Đế, Phong Thành phủ lỵ thái Nam bang.

Nghĩa là:

Rung động nhà Đường, năm Thuận Đức lừng oai kinh giặc Bắc,
Nối vận vua Mai, giữ Phong Thành sở trị vững trời Nam.

Theo LÊ THÁI DŨNG / KIẾN THỨC

Link: Redsvn.net



#32
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Thiền sư Khuông Việt – vị quốc sư đầu tiên của Việt Nam

Quốc sư Khuông Việt (933 – 1011) không chỉ là một nhà tu hành mà còn là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao tài ba của nước Việt. Danh tiếng cũng như huyền thoại về ông – tấm gương sáng về tinh thần đạo pháp dấn thân cùng dân tộc vẫn được lưu truyền từ ngàn đời nay trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

1200-187014300-pink-lotus-flower.jpg

Theo sử sách thì trước thiền sư Khuông Việt chưa có ai được phong Tăng thống tại Việt Nam (lãnh đạo toàn bộ tăng chúng Phật giáo).

Thiền sư Khuông Việt có tên tục là Ngô Chân Lưu – là cháu đích tôn của vua Ngô Quyền (thiền sư là con trai cả của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, và là anh của sứ quân Ngô Xương Xí). Có thuyết nói thiền sư sinh năm 930 tại làng Cát Lợi, phủ Thường Lạc, nay là xã Phục Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Đó là thời kỳ đất nước loạn lạc, chính thể chưa yên sau khi vua Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938) giành độc lập. Sau khi vua Ngô Quyền mất, lẽ ra cha của thiền sư là Ngô Xương Ngập nối ngôi nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi. Gia đình thiền sư phải chạy loạn vào xứ Thanh…

Thiền sư Khuông Việt là một đại trí thức mở nước. Tư tưởng và học vấn uyên thâm của đại sư được hình thành và phát triển trên cơ sở của việc học tập Nho giáo sau đó là Phật giáo. Thời kỳ lịch sử cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI ở nước ta, việc học chưa có điều kiện phát triển. Hầu hết các trí thức đều xuất thân chủ yếu từ các nhà chùa. Sau khi học Nho, Ngô Chân Lưu xuất gia tại chùa Phật Đà. Năm 20 tuổi, thiền sư cùng trụ trì chùa Phật Đà đến chùa Khai Quốc (trước ngoài đê sông Hồng, nay là chùa Trấn Quốc) cầu pháp, thụ đại giới với Thiền sư Vân Phong. Sau đó, thiền sư được truyền tâm ấn, trở thành vị tổ đời thứ tư dòng thiền Vô Ngôn Thông (dòng thiền vào nước ta năm 820, phát triển rực rỡ nhất vào thời Lý và là tiền thân của phái thiền Trúc Lâm – Yên Tử thời Trần sau này).

Thiền sư Khuông Việt là người xây dựng chùa Non Nước ở núi Vệ Linh (núi Sóc) sau một lần được Tỳ Sa Môn Thiên Vương báo mộng. Năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng mời ngài về kinh (Hoa Lư) vấn thiền. Thấy thiền sư quả thực thông tuệ, vua đã phong cho chức Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt (khuông phò nước Việt). Những buổi thiết triều, ngài đều được dự bàn việc nước. Triều đại thay đổi, vua Lê Đại Hành nắm quyền, thiền sư Khuông Việt, thiền sư Pháp Thuận vẫn là những trụ cột trí thức của triều đình.

Vua Lê Đại Hành đã phong chức Quốc sư cho Khuông Việt. Tại kinh đô Hoa Lư, Quốc sư Khuông Việt vừa phụ trách việc tôn giáo vừa là cố vấn của vua. Quốc sư đã đóng góp nhiều kế sách về tổ chức kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Giành thắng lợi trên chiến trường, Quốc sư Khuông Việt chủ trương hòa bình với nhà Tống, năm 986, ông và sư Đỗ Pháp Thuận phụng mệnh vua tiếp Lý Giác là sứ của nhà Tống. Sử sách còn ghi lại bài thơ “Vương lang quy” – một tác phẩm văn học ngoại giao xuất sắc đầu tiên của dân tộc do Quốc sư viết tặng Lý Giác lúc lên đường trở về nước.

Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, Quốc sư Khuông Việt cùng thiền sư Vạn Hạnh đã ủng hộ tích cực và tôn phò Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, thế vận nước ngày một hưng thịnh, Quốc sư Khuông Việt đã dời bỏ triều đình về chùa mở trường đào tạo tăng tài, tức là đào tạo trí thức cho đất nước. Người học trò nổi tiếng của Quốc sư là Thiền sư Đa Bảo – người có vai trò rất lớn đối với triều đình vua Lý Thái Tổ. Ngày 15/2 năm Thuận Thiên thứ 2 (1011), khi sắp cáo tịch, sư dạy Đa Bảo kệ rằng: “Trong cây vốn có lửa; Có lửa, lửa mới bừng; Nếu bảo cây không lửa; Cọ xát do đâu bùng”…

Quốc sư Khuông Việt qua đời ngày 22/3/1011 (âm lịch), thọ 82 tuổi, để lại các tác phẩm “Thiền uyển tập anh ngữ lục”, “Truyền đăng lục”, “Vương lang quy”.

Trải ba triều Đinh, Lê, Lý, với tầm kiến văn sâu sắc, uyên thâm đạo pháp, bằng uy tín và vị thế to lớn, Quốc sư Khuông Việt đã làm cho nước Đại Việt ngày một ổn định và hưng vượng. Tri ân thiền sư, ngày nay nhiều địa phương đã lấy pháp danh của thiền sư đặt tên đường, tên trường, tên tạp chí, thậm chí không chỉ trong nước ta mà ở Pháp (Paris) và Na Uy cũng có chùa mang danh của thiền sư.

Theo TẠP CHÍ QUÊ HƯƠNG



#33
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Ngô Thì Nhậm – khuôn mặt trí thức lớn thời Tây Sơn

Thời loạn tạo vóc dáng cho nhà nho Ngô Thì Nhậm, và ngược lại, Ngô Thì Nhậm cũng để lại dấu vết sâu đậm của con người mình lên thời loạn.

Bao-tang-Quang-Trung.jpg

Nguồn: Nguyễn Mộng Giác – Giai phẩm TÂY SƠN Xuân Ất Hợi 1995

Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh luận, một người có “vấn đề”. Gây tranh luận chẳng những do tài học của ông (bao gồm cả thi phú, biên khảo địa phương chí, Nho học, Phật học), do cuộc đời hoạt động chính trị quá nhiều thăng trầm của ông, mà còn do những điều ông nói ông làm đặt nhiều người trước những vấn nạn khó xử. Ngô Thì Nhậm là người không chịu chấp nhận dễ dàng những điều nhiều người chấp nhận, không đi theo lối mòn. Cũng giống như Quang Trung, Ngô Thì Nhậm bị thời thế đưa đẩy để phải quyết định những bước sinh tử ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng ngược lại, có đủ bản lãnh để khắc phục tình thế và lái lịch sử đi theo con đường mình cho là đúng.

Trong lịch sử Việt nam, ít có người trí thức nào đạt được mức tự tín và tài ba như ông. Trước ông, Chu Văn An là một huyền thoại về kẻ sĩ, một thứ huyền thoại cần thiết cho đạo học, nhưng chưa chắc đã cần thiết cho các hoạt động thưc tế. Nguyễn Trãi cũng có kiến thức uyên bác và khả năng hành động như Ngô Thì Nhậm, nhưng những khó khăn Nguyễn Trãi phải đối phó, so với Ngô Thì Nhậm, không nhiều. Làm quân sư cho một phong trào dân tộc kháng chiến chống ách đô hộ của ngoại bang để giành độc lập, Nguyễn Trãi cứ thuận theo chính nghĩa có sẵn để thi thố tài năng. Tổ quốc với vương triều ông tận tụy phục vụ là một. Về cuối đời, Nguyễn Trãi có gặp tai họa, nhưng nạn giết hại công thần không phải là hy hữu trong lịch sử, Nguyễn Trãi là nạn nhân của một guồng máy cai trị muốn ổn định quyền lực (nhà Hậu Lê) cũng giống như Lê Văn Duyệt là nạn nhân của nhà Nguyễn sau này.

Ngô Thì Nhậm không được may mắn như Nguyễn Trãi. Xã hội ông sống bị hỗn loạn tận gốc rễ, nhất là sự hỗn loạn về ý hệ. Tổ quốc và vương triều không phải là một như thời Nguyễn Trãi, trung với vua không nhất thiết là trung với nước. Mãi cho tới ngày nay, hơn hai trăm năm sau, chúng ta còn khó đồng ý với nhau về việc vua Lê Chiêu Thống qua cầu viện nhà Thanh để diệt Tây Sơn hoặc Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm, thì hồi đó, lòng Ngô Thì Nhậm và giới trí thức nho sĩ đương thời còn bối rối đến mức nào trước các thế lực chính trị phức tạp, mà thế lực nào cũng tự xem mình là có chính nghĩa, là chính thống. Ở Ðàng trong là Nguyễn Gia miêu và Tây sơn. Ở Bắc là vua Lê chúa Trịnh. Riêng triều thần phục vụ chúa Trịnh lại thêm phe Trịnh Tông, phe Trịnh Cán. Ngô Thì Nhậm mắc kẹt trong cái thế phân tranh rối rắm đó ngay từ đầu, mang tai tiếng ngay trên quê hương mình, tạo nghi kỵ chia rẽ ngay trong dòng họ mình. Ông may mắn gặp được một lãnh tụ chính trị biết dùng người nên ra sức phục vụ đắc lực trong nhiều phạm vi khác nhau, quân sự có, văn hóa có, kinh tế có, ngoại giao có, để rồi sau khi Quang Trung mất, đau đớn chứng kiến vương triều mình góp công xây dựng suy sụp và lãnh sự trừng phạt nhục nhã vào cuối đời.

Mẫu đời đó quá đặc biệt, dù xét từ quan điểm nào. Thời loạn tạo vóc dáng cho nhà nho Ngô Thì Nhậm, và ngược lại, Ngô Thì Nhậm cũng để lại dấu vết sâu đậm của con người mình lên thời loạn. Không có Ngô Thì Nhậm, xã hội Việt nam sẽ ra sao nếu không có một người uyển chuyển và khôn khéo về ngoại giao như ông để đối phó với nhà Thanh? Không có Ngô Thì Nhậm, đám nhân sĩ Bắc hà sẽ phản ứng thế nào trước một đám võ biền quá tự tín về sức mạnh võ bị lại được giao phó trọn vẹn quyền uy để cai trị một vùng đất ngàn năm văn vật? Những dự phóng của Ngô Thì Nhậm cho một nền kinh tế hậu chiến (như trong bài Chiếu khuyến nông) đã đưa tới kết quả gì?

Tìm hiểu cuộc đời Ngô Thì Nhậm tuy khó nhưng còn làm được, phán xét về ông thì khó hơn, vì đòi hỏi một cái nhìn đã thoát khỏi các ý hệ. Ngô Thì Nhậm là một nhân vật lịch sử danh tiếng và tai tiếng.

Ngô Thì Nhậm, tự là Hi Doãn, hiệu là Ðạt Hiên, viết về Phật học lại có đạo hiệu là Hải lượng, sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (25-10-1746) tại làng Tả Thanh oai, huyện Thanh trì, thuộc một dòng họ nổi tiếng về cử nghiệp và khoa hoạn. Cha ông là Ngô Thì Sĩ (1726-1780), đỗ Hội nguyên hoàng giáp, từng làm quan lớn cho nhà Trịnh, khi là Tham chính Nghệ an, khi làm Ðốc trấn Lạng sơn (đúng vào lúc con trai ông, Ngô Thì Nhậm làm Ðốc đồng Kinh bắc kiêm Ðốc đồng Thái nguyên, hai cha con trấn nhậm tại ba trong bốn trấn quan trọng nhất quanh kinh đô Thăng long). Về văn nghiệp, Ngô Thì Sĩ là tác giả “Việt Sử Tiêu Án” và một số tập thơ Hán văn giá trị như “Anh Ngôn Thi Tập”, Quan Lan Thi Tập”, “Nhi Thanh Ðộng Tập”, “Khuê Ai Lục”. Ông mất năm Canh Tý (1780) sau vụ án Canh Tý (Trịnh Sâm dẹp tan âm mưu đảo chính của phe cánh Trịnh Tông muốn diệt trừ phe cánh Ðặng Thị Huệ và Quận Huy), do bạo bệnh sau một chuyến đi Nam quan cho việc quan, nhưng dư luận Bắc hà có ác cảm với Ngô Thì Nhậm cứ phao truyền rằng ông buồn vì con trai mà chết.

Có lẽ thật sự Ngô Thì Sĩ không hề buồn phiền vì đứa con trai đầu của mình. Ngược lại là khác, Ngô Thì Nhậm là một niềm hãnh diện cho ông. Nhờ truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn “Nhị thập tứ sử toát yếu”. Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi hương. Hai mươi tuổi, viết “Tứ gia thuyết phả”. Hai mươi ba tuổi, đỗ khoa sĩ vọng, được bổ Hiến sát phó sứ Hải dương. Hai mươi sáu tuổi, dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng đồng thời hoàn thành “Hải đông chí lược”, một tập địa phương chí của Hải dương. Hai mươi chín tuổi, đỗ thứ năm hàng tiến sĩ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Ðạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn thời đó, Ngô Thì Nhậm liên tiếp được giao cho những chức vụ quan trọng:

Năm 1775: Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ.

Năm 1776: Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn nam, sau đó thăng Ðốc đồng trấn Kinh bắc.

Năm 1778: Vẫn giữ Ðốc đồng Kinh bắc nhưng kiêm thêm chức Ðốc đồng Thái nguyên.

Từ thời niên thiếu cho đến 1780 nổ ra vụ án Canh Tý, cuộc đời 35 năm của Ngô thì Nhậm gồm một chuỗi những thành công bình thường ở vào một thời bình thường. Thành công về cử nghiệp và hoạn lộ đi kèm với những thành công về văn chương. Thơ phú Ngô Thì Nhậm sáng tác thời kỳ này vượt hẳn những bạn đồng thời. Phan Huy Ích trong bài tựa tập “Ngô gia văn phái” hết lời ca tụng ông bạn tiến sĩ đồng khoa và cũng là anh vợ mình: “Văn ông có ý tứ diễm lệ, vừa hàm súc, vừa phóng khoáng, càng ra nhiều lại càng hay, bao quát được bách gia, khu khiển được cửu lưu, tài uyên bác thông đạt trở thành ngọn cờ chót vót giữa rừng Nho chúng ta.” Gác một bên những lời thậm xưng thường thấy trong phả ký của các thế gia vọng tộc, gác qua một bên lòng ngưỡng mộ riêng tư của Phan Huy Ích đối với một ông anh vợ xuất chúng, đọc lại văn thơ Ngô Thì Nhậm trong thời kỳ này, chúng ta thấy tư tưởng của ông, nghệ thuật của ông tuy có tài hoa phóng dật đấy, nhưng vẫn là cái tài hoa phóng dật trong vòng trật tự khuôn thước. Khuôn thước do niềm kiêu hãnh dòng dõi. Khuôn thước của một ý hệ chưa bị thời loạn thử thách. Trong bài Cô Châu, ông viết:

Nhân nghĩa vị cao, trung tín đà
Niên niên phiếm tác Ðẩu quang xa

(Nhân nghĩa làm con sào, trung tín làm bánh lái
Ðóng thành một chiếc bè, hàng năm giong lên vùng sao Ðẩu)…
Tái đạo khứ lai, nhàn áp lãng,
Bình tâm hành chỉ, đẳng doanh khoa.

(Chở đạo thánh hiền, ung dung đè làn sóng mà qua lại, Khi bơi khi nghỉ, vững lòng đợi nước đầy vũng mà tiến lên) (1) Loại thơ phú nói lên chí khí kẻ sĩ lúc chưa gặp thời, an bần lạc đạo như thế này, có thể nói là thời thượng chung chung của tất cả thi gia thời xưa, chỉ khác nhau về cách diễn tả, về nghệ thuật diễn tả chứ không khác mấy về nội dung. Trước Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Trãi cũng viết chừng ấy. Sau ông, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ… cũng viết chừng ấy.

Vụ án năm Canh Tý là thử thách đầu tiên cho Ngô Thì Nhậm, vụ tai tiếng đầu tiên thử thách sức mạnh nhân sinh quan và sức phấn đấu của ông. Nội vụ như sau:

Khoảng tháng 7 năm 1780 (Canh Tý) Trịnh Tông con trai trưởng của Tĩnh vương Trịnh Sâm biết cha có ý định phế trưởng lập Trịnh Cán con trai Ðặng Thị Huệ, nên âm mưu đảo chính diệt trừ phe Ðặng Thị Huệ và Quận Huy, nhất là lúc ấy Trịnh Sâm bị bệnh nặng. Trịnh Tông liên kết với Nguyễn Khản trấn thủ Sơn tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh bắc, và một số quan lại khác tại triều như Nguyễn Phương Ðĩnh, Chu Xuân Hán… xuất tiền mua vũ khí, chiêu mộ binh mã, chờ Trịnh Sâm chết là khởi sự. Bất ngờ Trịnh Sâm khỏi bệnh và âm mưu bị bại lộ. Sâm đích thân đàn áp những người tham dự vào âm mưu đảo chính. Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Ðĩnh, Chu Xuân Hán bị khép án tử, Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) cũng bị khép trọng tội. Sau vụ đàn áp đẫm máu, Ngô Thì Nhậm được thăng làm Công bộ Hữu thị lang. Vụ này khiến cho giới sĩ phu Bắc hà xem Ngô Thì Nhậm như một loại chiên ghẻ. Sử sách ghi lại vụ này theo nhãn quan chính trị của mình.”Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn cho rằng Ngô Thì Nhậm cùng Nguyễn Huy Bá tố cáo âm mưu đảo chính cho Trịnh Sâm biết, nhờ thế sau khi đàn áp, Sâm thưởng công cho Ngô Thì Nhậm bằng chức tước cao trọng. Ngô Thì Sĩ bị nhục nhã vì đứa con bất hiếu, uống thuốc độc tự tử. Do đó Nhậm mới bị cái tiếng “sát tứ phụ nhi thị lang” ( giết bốn cha để được chức Thị lang. Bốn cha ý chỉ Ngô Thì Sĩ và ba người bạn vong niên của cha là Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Ðĩnh và Nguyễn Khắc Tuân). “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” và “Ngô gia thế phả” dĩ nhiên bênh vực cho Ngô Thì Nhậm, cho rằng ông không liên can vào vụ này, và sở dĩ được Trịnh Sâm thăng chức chỉ vì Ngô Thì Nhậm bị Quận Huy ganh ghét, muốn ông phải mắc tai tiếng với đời. Những tài liệu lịch sử khác, độc lập hơn, như “Hậu Lê Thời Sự Kỷ Lược”, “Lịch Triều Tạp Kỷ” tuy ghi nhận dư luận đương thời nhưng không hề nói Ngô Thì Nhậm tố cáo vụ đảo chính. Có hay không, cho đến ngày nay vẫn còn là một nghi vấn, việc xét công tội của Ngô Thì Nhậm cũng không còn là vấn đề quan trọng nữa. Ngô Thì Nhậm tham dự vào trò chơi chính trị thì phải gánh lấy những hậu quả của các âm mưu tranh giành quyền bính. Oan hay ưng, không thành vấn đề. Sau loạn kiêu binh, ông đã phải trả giá cho trò chơi quyền bính này, phải trốn nấp suốt sáu năm trong nhục nhã, khổ cực.

Ðiều quan trọng là Ngô Thì Nhậm đã đối phó như thế nào trước tai họa ấy. Thơ phú ông làm trong sáu năm sống ẩn nấp (từ 1782-1788) phản ánh rất rõ tâm trạng Ngô Thì Nhậm thời gian này, nhất là các bài phú.Ba bài phú tiêu biểu nhất của thời kỳ này là “Mộng Thiên thai phú”, “Lâm trì phú”, Tiêu dao du phú”. Tai tiếng ông gánh chịu sau vụ án Canh Tý chỉ ảnh hưởng chút ít đến tâm hồn Ngô Thì Nhậm, không hề làm cho ý hệ Nho giáo – kim chỉ nam của đời ông – bị lung lay. Những bài phú tài hoa phóng dật ấy, mới đọc chúng ta tưởng ông đã thoát ra khỏi cương giới của Nho giáo, bay bổng lên trên những ràng buộc, nhưng đọc kỹ thì thấy không phải thế. Ngô Thì Chí, em ruột Ngô Thì Nhậm thật đã hiểu rõ lòng anh khi nhận xét rằng trong bài phú của anh (Mộng Thiên thai phú) “núi sông, phong cảnh, vua chúa, Tiên Phật, thảy đều định rõ ranh giới, rút cả vào hai chữ ‘danh giáo’ của nhà Nho”.Trong “Mộng Thiên thai phú”, Ngô Thì Nhậm mượn lời “khách” đặt câu hỏi cho chính mình:

Tử tương hà cư? Tiên dư? Thích dư?
Ức hiệu chiêm hoàng ốc chi hậu trần dư?
Dĩ ngô quan tử:
Khứ quốc, hoài hương, ưu sàm, úy ky (cơ)
Nan vi Lưu, Nguyễn chi cao đạo
Khả học Tam tổ chi từ bi
Tĩnh phương thốn ư dục động,
Liễm vạn sự ư vô vi
(Nay ông định sao nhỉ? Theo Tiên ư? Theo Phật ư?
Hay theo ngắm bụi đường của xe hoàng ốc ru?
Ta xem ông, rõ kẻ:
Bỏ nước, nhớ mong quê
Ðã ngại lời dèm báng
Lại sợ tiếng cười chê
Khôn theo Lưu, Nguyễn đường cao ẩn
Nên học Tam tổ đạo từ bi
Gửi lòng mình vào tĩnh lặng
Gác mọi việc vào vô vi.)
để sau đó tự trả lời:
Dư văn khách ngôn, phú chướng đại tiếu:
Ngô hà năng Tiên, Thích diệc bất đáo
Liêu tòng sự ư kinh tịch
Cầu vô khiếm hồ danh giáo
Túng Hợp Phố chi hữu niên
Giác cô tùng chi tương lão:
Kỳ hoặc:
Thiên địa vô ải, giang sơn tương yêu
Quải nhất biểu hề, du ngao.
Biến vũ trụ dĩ vi lư
Phù hà hệ hồ hồng mao?
Ngô tử điểm kiểm tư sơn, đãi ngô tiêu dao.
Nhân sinh giải cấu giai tiền định
Khởi trực Ðào Nguyên năng thụ đào?
(Nghe lời khách nói xong, ta vỗ tay, cười bảo:
Tôi sao thể thành Tiên? Phật, cũng không đắc đạo!
Chỉ theo hướng Thi Thư
Khỏi trái đường “danh giáo”
Hợp Phố kia về, hoặc có phen,
Gốc thông lẻ xem chừng sắp lão!
Thảng hoặc:
Ðất trời chẳng hẹp,
Núi sông yêu cầu,
Quẳng một bầu chừ, chơi thỏa thích
Phất tay áo chừ, đi ngao du
Khắp vòng vũ trụ, nhà ta đó
Ðôi cánh chim hồng buộc được nao?
Núi này xin dành lại
Ðợi ta về tiêu dao
Ðời người gặp gỡ do tiền định
Há chỉ Ðào Nguyên mới gặp đào. (2)

Ngô thì Nhậm vững tin ở thiên mệnh; hệ thống tư tưởng Nho giáo giúp ông an nhiên chờ thời và chịu đựng nghèo túng lẫn dư luận.

Cái “thời” ông chờ đã đến vào năm 1778, lúc Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm và xuống chiếu tìm quan lại cũ của cựu triều để giao cho trọng trách cai trị Bắc hà. Tài liệu sử còn lại cho đến ngày nay bảo rằng Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc hà tới trình diện ở bộ Lễ , và vì một sự hiểu lầm, suýt bị lễ quan Võ Văn Ước làm nhục. Văn thơ của ông không lưu dấu tích tâm trạng ông trước khi quyết định phục vụ cho triều Tây Sơn. Chúng ta có thể đoán đây không phải là một quyết định vội vã, dễ dàng. Thử ở vào hoàn cảnh Ngô Thì Nhậm lúc đó. Cả dòng họ ông là bề tôi phủ chúa, chính ông nhận được nhiều ân huệ của Tĩnh vương Trịnh Sâm. Ông từng hãnh diện cho rằng mình là người lái thuyền lấy “nhân nghĩa” làm con sào, “trung tín” làm bánh lái, thì bây giờ phải ăn làm sao nói làm sao với mọi người khi ra cộng tác với Nguyễn Huệ người xô ngã họ Trịnh. Ông đã nếm đủ vị cay đắng của dư luận suốt sáu năm qua. Ông biết trước là lần này dư luận sẽ khắc nghiệt hơn, độc địa hơn. Những nhà viết sử ở Hà nội ca tụng hết lời quyết định hợp tác với Tây Sơn của Ngô Thì Nhậm, xem như một “giác ngộ cách mạng”, “trở về với nhân dân”… Việc xưng tụng theo nhãn quan đấu tranh giai cấp của sử gia cộng sản Việt nam đã làm, vừa gượng ép, vừa không hợp lý. Ở vào thời kỳ việc thông tin còn khó khăn, tài liệu tuyên truyền của chính quyền vừa sơ sài vừa khó phổ cập (do trở ngại Hán tự trong các chiếu biểu và văn thư hành chánh), khó lòng Ngô Thì Nhậm biết được thực chất của Tây sơn là gì. Mai Quốc Liên viết tiểu sử Ngô Thì Nhậm trong “Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm” bảo rằng: “Chính sách cầu hiền chân thành và sáng suốt của Nguyễn Huệ, uy tín lớn lao của người anh hùng nông dân áo vải này, đã gặp sự chờ đợi của Ngô Thì Nhậm sau bao năm ẩn náu”. Lối nhận định ấy giản lược quá đáng thực tại lịch sử. Thật ra, sau lần đầu kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, đặt một ông vua trẻ họ Lê lên cái ngai khập khễnh, cưới một nàng công chúa mươì sáu tuổi và vơ vét kho tàng của cải của phủ chúa chở về Nam, Nguyễn Huệ chỉ mới khiến cho dân Bắc hà bàng hoàng kinh sợ (lớp quí tộc vương tôn lâu đời) hoặc tò mò thích thú (lớp dân chúng nghèo khổ), chứ chưa gây được một uy tín lớn lao.

 

Ngô Thì Nhậm từng viết:
Ngô hoài ký liêu khuếch
Tư sơn trường thôi ngôi
Vọng tri kỷ hề, thiên nhất nhai
Hà nhân thức hề, ngô linh đài?
(Lòng ta gửi man mác
Núi này mãi cao vời
Mong Người-Tri-Kỷ chừ, một phương trời
Lòng ta chừ, tri âm ai người? (3)
(Mộng Thiên thai phú)

Người-Tri-Kỷ ông chờ đợi, vào thời điểm 1778, không phải, chưa phải là Nguyễn Huệ. Xuất xứ của Nguyễn Huệ, vóc dáng của Nguyễn Huệ, hành động của Nguyễn Huệ thật khó mà phù họp với dự tưởng của ông Nghè Nhậm về Người-Tri-Kỷ. Ðó là một sức mạnh hoang dã bất trắc, hứa hẹn bão táp chứ không hứa hẹn một trất tự ổn cố như mong ước của nhà nho. Nếu muốn tìm một mẫu thực cho hình ảnh Người-Tri-Kỷ, có lẽ Ngô Thì Nhậm nghĩ tới Tĩnh vương Trịnh Sâm, lúc vị chúa này chưa bị cái nạn Tuyên phi.

Là người đầu tiên trong số cựu thần phủ chúa đến trình diện ở bộ Lễ, Ngô Thì Nhậm chưa chắc đã quyết định dứt khoát và sớm sủa hơn các bạn đồng liêu. Có thể chỉ vì không thể chịu đựng hơn nữa cuộc sống ẩn nấp ru rú, ông đánh một ván cờ liều. May cho ông, ông gặp Trần Văn Kỷ, một trí thức cùng trình độ và cùng một khả năng hành động như ông. Sau đó, ông nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ.

Thử thách lớn lao nhất của Ngô Thì Nhậm, vì thế, không phải là quyết định ra hợp tác với nhà Tây sơn, mà là những gì ông phải đương đầu sau đó. Ông được Nguyễn Huệ phong ngay cho chức Tả Thị lang bộ Lại, tước Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê. Như vậy là sau khi Nguyễn Huệ về Nam, Ngô Thì Nhậm đột ngột trở thành nhân vật cao cấp nhất trong guồng máy cai trị của Bắc hà, song song với Ngô Văn Sở người của Tây Sơn trông coi về quân sự và an ninh. Ông không còn cái an toàn của người thừa hành trong guồng máy. Trước hết, ông phải đương đầu với chính cái ý hệ đã giúp ông an nhiên tự tín bao lâu nay, ý hệ Nho giáo. Hệ thống triết lý (bao gồm đầy đủ luận lý học, đạo đức học, tâm lý học, siêu hình học, chính trị xã hội học) này trong quá trình phát triển đã dần dần biến cải, giản lược, càng về sau càng trở thành một lý thuyết hữu hiệu để duy trì trật tự phong kiến. Với đa số dân chúng, ý hệ nho giáo đơn giản hóa thành những tiêu chuẩn đạo đức như trung, hiếu, tiết, nghĩa. Người cầm quyền đặc biệt đưa vào chương trình giáo dục và đào tạo người thừa hành ý niệm tuyệt đối của chữ “Trung”, của “Lẽ Chính Thống”.

Chắc chắn trước khi quyết định ra hợp tác với Tây Sơn, Ngô thì Nhậm đã trằn trọc nhiều đêm vì chữ “Trung”. Ông phải tự hỏi triều Tây Sơn có “thiên mệnh” hay không? Nguyễn Trãi không hề thắc mắc như thế. Những người theo phò Nguyễn Ánh lấy lại cơ nghiệp nhà Nguyễn và những cựu thần Lê Trịnh chống Tây Sơn cũng không hề thắc mắc gì. Họ đầy tự tin, vì việc họ làm, vương triều họ bảo vệ đã có cái nền chính thống dày những hai trăm năm. Núi sông, đồng bằng, cây cỏ, chim muông, tấc đất ngọn rau đều là của “chúa”, Trịnh ở Ðàng Ngoài, Nguyễn ở Ðàng Trong. Tổ tiên Trịnh Nguyễn có công gầy dựng thì con cháu hai trăm năm sau (dù là hạng con cháu ốm yếu bệnh hoạn như Trịnh Cán) có quyền được hưởng, anh em Tây Sơn lấy cái “mệnh” gì mà từ một chỗ heo hút vô danh dám nổi lên diệt Nguyễn, diệt Trịnh. Phải công nhận họ đang có sức mạnh, nhưng sức mạnh không qua được lẽ phải. Lẽ phải nằm ở đâu? Ngô Thì Nhậm phải trả lời những câu hỏi hóc búa đó, trước là cho ông, sau đó cho những người thân trong gia đình, cho các bạn học, cho các bạn đồng liêu nay trở thành kẻ dưới quyền ông.

Ngô Tưởng Ðạo chú ruột, Ngô Thì Chí em ruột đã chọn phía đối nghịch với ông. Những lá thư trao đổi giữa Ngô Thì Nhậm với Ngô Tưởng Ðạo, Trần Danh Án còn lưu lại, chứng tỏ phản ứng của giới nho sĩ bảo thủ Bắc hà đối với Ngô Thì Nhậm gay gắt, khốc liệt đến mức nào. Là nho sĩ Bắc hà, lại nhận nhiệm vụ quan trọng nhất Tây Sơn giao cho để đối phó với tình trạng rối ren phức tạp ngay trên quê hương mình, Ngô Thì Nhậm chịu tất cả mọi chỉ trích, phỉ báng, chửi rủa. Ông có quyền, nhưng hoàn toàn bị cô lập, hoàn toàn cô đơn.

Ðã thế, ông còn phải hàng ngày đối phó với một đám tướng lãnh Tây Sơn ít học và hãnh tiến, tự cao tự đắc với thứ quyền uy mới mẻ của mình. Vũ Văn Nhậm đã bị giết nhưng chắc chắn cung cách kiêu lộng của Nhậm taị Thăng long vẫn là chuyện đầu môi của dân Bắc hà. Ngô Văn Sở có khá hơn không?

Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí:

“Một hôm, mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân (nội hầu) và Tuyết (đô đốc) rằng:

• • Chúa công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa thể tin là có biết cách cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả thử có Tề thiên Ðại thánh từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta cũng chỉ quét một lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì.

Rồi Sở ngoảnh lại ảo Ngô Thì Nhậm rằng:

 • Quan Thị lang thật giỏi về văn học, còn việc cung kiếm có thạo gì không?

Nhậm nói:

• • Có văn tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng binh, gặp việc thì lo, sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như thế? Tôi trộm nghe bọn người nước ta chạy sang bên Trung hoa, trong đó có nhiều người định xúi họ mở mang bờ cõi, gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ đến lời nói của tôi.

Sở cười và nói:

• • Lúc ấy sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo? “ (4)

“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử do người trong gia đình Ngô-thì viết, nên người đọc có quyền nghi ngờ các tác giả đã tô điểm thêm cho phong thái tự tại tự tín của Ngô Thì Nhậm trước các tướng tá Nam hà. Nhưng cứ suy luận theo lẽ thường tình, thì thái độ hống hách khinh thị của Ngô Văn Sở đối với người Bắc hà là có thật. Còn thái độ ung dung tự tín của Ngô Thì Nhậm trước đám võ biền kiêu ngạo, tôi cũng nghĩ là có thật. Nếu ông tỏ ra qụy lụy hèn nhát, hoặc cầu an vâng dạ cho xong, thì về sau, Ngô Thì Nhậm không đủ uy và dũng để thuyết phục Ngô Văn Sở tạm rút quân về Tam điệp trước sức tấn công vũ bão của quân Thanh. Phải có một nghị lực phi thường, một niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh của trí tuệ, Ngô Thì Nhậm mới đối phó nổi, một bên là dư luận ác cảm của sĩ phu Bắc hà, một bên là bản tính thô bạo kiêu căng của đám tướng lãnh Tây Sơn.Tôi nghĩ Ngô Thì Nhậm phải đợi tới lúc Nguyễn Huệ xưng đế và đại phá quân Thanh, ông mới hoàn toàn yên ổn về tinh thần. Chữ “trung” không còn quấy rầy ông nữa. Ông không còn mặc cảm bất trung với chúa Trịnh, mà dư luận cũng hết xem ông như một kẻ xu thời, phản bội. Ðến lúc ấy, Ngô Thì Nhậm mới có được ưu thế thuận lợi của Nguyễn Trãi. Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn. Chính sách ngoại giao khôn khéo đối với nhà Thanh, không nghi ngờ gì nữa, là tác phẩm của Ngô Thì Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung. Từ lúc khởi dấy dưới sự chỉ bảo của anh cho tới lúc cưỡi voi dày lên xác quân Thanh ở Thăng long, Nguyễn Huệ chưa hề thất bại. Sau khi thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ sẽ phạm những lỗi lầm thường thấy ở kẻ thành công, nếu không có những lời cố vấn sáng suốt của Ngô Thì Nhậm.

Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam quan vào tới Bến Ván, Quang Trung đã nghe theo lời cố vấn của hai văn thần quan trọng là Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế khóa. Chúng ta không biết sự phân công phân nhiệm giữa hai văn thần này ra sao, có điều rõ ràng là cả hai quí trọng nhau, không hề có những xích mích hay đố kỵ do mới cũ, nam bắc. Có lẽ phần đối nội như quản trị hành chánh, tài chánh, nhân sự do quan Trung-thư-lệnh Trần Văn Kỷ đảm trách vì ông đồ Vân Trình là người cũ, giao thiệp quen biết với các quan lại công thần từ Qui nhơn ra hơn Ngô Thì Nhậm. Phần Ngô Thì Nhậm, có lẽ đảm trách phần đối ngoại và những vấn đề có tính cách chiến lược dài hạn. Trong bài thơ “Tảo triều Trung Hòa điện tứ nhập nội thị độc chiến thủ tấu nghị cung ký”:

Xâm thần vị tán ngũ canh sương
Y ốc kê thanh triệt Thượng Dương
Phủ tọa dĩ bài kim kiếm vệ
Các thần phương chỉnh tú y hàng
Thần mô miếu toán truyền thiên ngữ
Quốc kế biên trù diễn các chương
Thùy thị bình Hoài Bùi tướng quốc
Ưu cầu cơ lược tán ngô hoàng?
( Tảng sáng chưa tan sương canh năm
Tiếng gà eo óc, thấu cung Thượng Dương
Nơi ngự tọa, thị vệ gươm vàng đã sắp đặt
Chỗ đình thần, hàng ban áo gấm đã chỉnh tề
Truyền đạt lời vua, mưu mô chiến lược

Kế hoạch trong nước, ngoài biên giới đều ban chỉ dụ Ai là người có tài dẹp giặc đất Hoài như tướng quốc họ Bùi xưa Biết lo nghĩ, chuyên cần, bày mọi mưu cơ để giúp vua ta ) (5) Chúng ta thấy Ngô Thì Nhậm đóng góp rất nhiều cho việc soạn thảo, nghiên cứu các kế hoạch quốc phòng cũng như đối nội. Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ, Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Mà thật ra, cũng chưa phải là thời bình, vì Qui nhơn vẫn còn đó, ngăn chận con đường thống nhất trọn vẹn, và Nguyễn Ánh vẫn còn khống chế vùng đất màu mỡ Gia định. Trong các kế hoạch bình định, chắc chắn Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, “Tờ Chiếu Khuyến nông”, được dòng họ Ngô-thì lưu giữ và ghi vào tập “Hàn các anh hoa” của Ngô Thì Nhậm. Phần chính của tờ chiếu như sau (bản dịch):

Trẫm chịu mệnh trời, giữ nghiệp lớn, bốn bể trong lặng. Nay buổi đầu đại định, chính sách khuyến khích sản xuất làm cho dân giàu phải tiến hành lần lượt. Phàm kẻ du đãng, người giấu giàu là thói thường. Cái đạo che chở dân, chẳng gì bằng dắt dân lưu tán trở về, khai khẩn ruộng hoang, khiến dân du thủ du thực trở về làm ruộng. Còn những dân nào kiều ngụ nơi khác từ trước, trốn tránh sưu dịch, hoặc ở quê vợ quê mẹ, hoặc đã lập nghiệp bán buôn, trừ ra những người đã nhập tịch từ ba đời trở lên, còn thì nhất thiết bắt về bản quán, xã khác không được dung túng cho trú ngụ. Những ruộng công ruộng tư, trót đã bỏ hoang, phải trở về nhận lấy để cày cấy, không được để hoang, khiến cho những người thục cày cấy ruộng khác phải chịu thuế khống.

Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng phải xét sổ đinh hiện có bao nhiêu xuất, số điền hiện có bao nhiêu mẫu, ruộng hoang mới khai khẩn bao nhiêu mẫu, hạn trong tuần tháng chín phải làm sổ xép loại, đem nộp cho các quan Phân xuất, Phân tri huyện mình, các viên này chuyển đệ lên, đợi quan Khâm sai xét thực, sẽ châm chước mà đánh thuế cho công bằng.

Xã nào dung túng cho khách hộ trú ngụ mà không đuổi về bản quán và những người trốn tránh lần lữa không về, nếu có người biết tố giác, điều tra ra sự thật, thì sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng xã ấy cùng người trốn tránh đều bị xử tội. Xã nào có ruộng bỏ hoang đã lâu mà không ai nhận, nếu là ruộng công, thì trách cứ vào các viên chức sắc, các chủ hộ xã ấy, phải chiếu nguyên ngạch thuế ruộng mà nộp gấp đôi. Nếu là ruộng tư thì sung công, ngạch thuế cũng như ruộng công.” (6)

Ngày nay chúng ta không có tài liệu sử nào để biết chính sách di dân và khai hoang do Ngô Thì Nhậm khởi xướng đã được thi hành tới đâu, đã gây ra những phản ứng gì trong dân chúng, đã đạt được kết quả gì. Tuy nhiên, lấy lý thường mà xét, chính sách ấy không thực tế và chắc chắn đã gây ra những xáo trộn khủng khiếp thay vì ổn định xã hội.

Từ thời Nguyễn, chế độ phân định “chính hộ” (dân thường trú chính thức) và “khách hộ” (dân tạm cư từ nơi khác tới) đã có nhiều bất công. Theo Lê Quí Dôn ghi lại trong “Phủ Biên Tạp Lục”, “khách hộ” chịu đủ mọi thiệt thòi về nghĩa vụ quân sự, nộp thuế, làm sưu dịch. Sau một thời gian dài chinh chiến liên miên, nhất định số dân lưu tán xiêu dạt càng cao. “Chiếu khuyến nông” đã không giải quyết kỳ thị bất công có từ thời chúa Nguyễn, mà còn làm cho bất công trầm trọng thêm. Ai không lưu cư từ ba đời trở lên đều bị buộc phải trở về “bản quán”, trong khi các khách hộ ở “bản quán” lại bị buộc hồi hương. Sự xáo trộn không cần thiết, chẳng những không gia tăng sản xuất nông nghiệp mà còn làm trì trệ sản xuất, chưa kể “Chiếu khuyến nông” tạo điều kiện cho bọn chức sắc tham nhũng, áp bức dân đen.

Trước khi mất, Quang Trung đã ra hịch truyền quan lại, quân dân hai phủ Quảng ngãi, Qui nhơn (phần đất do Nguyễn Nhạc kiểm soát) sửa sang cầu cống chuẩn bị quân lương để Quang Trung dẫn quân theo đường bộ qua hai phủ tiến vào Gia định diệt lực lượng Nguyễn Ánh. Ðây là một quyết định táo bạo, vì kế hoạch hành quân đó đương nhiên phủ nhận vương quyền của Nguyễn Nhạc. Kế hoạch đó cũng cho chúng ta thấy rõ Quang Trung ý thức chính xác tầm hiểm họa của Gia định. Ngô Thì Nhậm có công lao gì trong việc soạn thảo kế hoạch hành quân lớn lao này? Thiếu tài liệu, chúng ta không trả lời được. Cho dù Quang Trung còn sống để thực hiện kế hoạch quân sự này, chưa chắc ông đã đạt các mục tiêu chính. Ông dễ dàng ngang nhiên kéo quân qua địa phận của Nguyễn Nhạc mà ông vua anh già cả bệnh hoạn không dám phản ứng gì. Ông cũng có thể dễ dàng đánh bại quân Nguyễn Ánh ở Gia định như các lần trước. Nhưng quân Tây Sơn không thể đóng lâu ở Gia định. Họ đã không được dân Gia định xem trọng. Từ trước tới sau, giới di dân người Hoa nắm giữ guồng máy kinh tế của đất Gia định trù phú, và cả dân làm ruộng xem Tây Sơn như một bọn cướp hàng năm thuận mùa gió vào Gia định cướp lúa rồi về. Tôi cho rằng trước khi mất, Quang Trung vẫn chưa thấy hết giá trị kinh tế lớn lao của Gia định. Ông chỉ quan tâm tới Gia định theo cái nhìn một tướng lãnh. Ngô Thì Nhậm có lẽ cũng không nhìn được xa hơn Quang Trung. Ông có thể quyền biến để giữ được niềm tin vào ý hệ nho giáo trong thời kỳ hưng phế điên đảo, nhưng cũng chính thứ nho giáo bảo thủ ông hấp thụ thu hẹp tầm nhìn của ông, không cho phép ông thấy sức mạnh của giới doanh thương và tiềm năng kinh tế lớn lao của miền Nam.

Vương triều Tây Sơn suy vi nhanh chóng sau khi Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm vừa mất Người-Tri-Kỷ vừa mất niềm tin tuyệt đối vào đạo nho. Phải chờ tới lúc đó ông mới hiểu đạo Phật. Ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt nam. Chưa có một người trí thức Việt nam nào, từ xưa tới nay, có một đời sống tâm linh và đời sống trần thế phong phú đa diện cho bằng Ngô Thì Nhậm.

CHÚ THÍCH

1. Thơ Ngô Thi Nhậm, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1986, trang 32-33, bản dịch của Nguyễn Sỹ Lâm
2. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, trang 36, 41-42, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
3. Sách đã dẫn, trang 45, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
4. Hoàng Lê Nhất Thống Chí, quyển 2, Ngô gia văn phái, Nguyễn Ðức Vân, Kiều Thu Hoạch dịch, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1987, trang 155-156.
5. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, trang 213, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
6. Tuyển tập thơ vân Ngô Thì Nhậm, q.2, trg 120, bản dịch Mai Quốc Liên.

S.T



#34
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Nghệ thuật quân sự Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn của người Nga

Nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam đã giúp Việt Nam đã đánh bại những đội quân có ưu thế vượt trội cả về binh lực lẫn phương tiện chiến tranh.

Vo-Nguyen-Giap.jpg

Bài viết đăng trên báo Tướng lĩnh và Chỉ huy của Nga.

Sự tan rã của Liên bang Xô Viết sau cuộc chiến tranh lạnh đã làm thay đổi hoàn toàn trật tự thế giới. Cho đến ngày nay, tiềm lực của nước Nga còn rất xa mới đạt được những gì đã có của Liên Xô trước đây, trong đó có tiềm lực quốc phòng.

Tình hình an ninh thế giới, sự bất ổn của khu vực châu Á-Thái Bình Dương cùng với việc giảm thiểu các nguồn tài nguyên và sự đe dọa của làn sóng khủng bố vũ trang mới đang diễn ra ngay sát biên giới nước Nga đã buộc các nhà quân sự Nga phải xem xét lại những quan điểm tác chiến đã cũ và nghiên cứu những lý luận quân sự mới, trên cơ sở những nguy cơ gây mất an ninh và chủ quyền đất nước. Một trong những bài học kinh nghiệm đó là lý luận giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh của lực lượng có tiềm lực quân sự và khoa học công nghệ thua kém hơn đối phương nhiều lần.

Cơ sở căn bản để nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự tiến hành các hoạt động tác chiến chống lại những lực lượng có quân số đông, có vũ khí trang bị và công nghệ hiện đại là những bài học kinh nghiệm từ hàng loạt các cuộc chiến tranh nửa sau thế kỷ 20. Một vị trí quan trọng bậc nhất trong các bài học kinh nghiệm đó là những di sản nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và các lực lượng phản động trong nước.

Cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam kéo dài suốt trong 4 thập kỷ liên tục với rất nhiều kẻ thù . Những lực lượng quân sự hùng mạnh, có vũ khí trang bị hiện đại đều lần lượt thất bại thảm hại trong một cuộc chiến hoàn toàn không cân sức. Những chiến thắng có sức lan tỏa khắp địa cầu như Điện Biên Phủ, Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử…

Các lực lượng vũ trang quân đội Nhân dân (QĐND) Việt Nam, những đơn vị binh chủng hợp thành và các quân đoàn, thấm nhuần nghệ thuật chiến tranh nhân dân, vừa có thể thực hiện những hoạt động tác chiến theo phương pháp chiến tranh du kích, vừa có thể tiến hành các chiến dịch chính quy hoặc phối hợp cả hai phương thức tác chiến một cách hiệu quả. Từ nghệ thuật tiến hành các trận đánh đến chiến dịch quy mô lớn, lực lượng QĐND Việt Nam đã đánh bại những đội quân có ưu thế vượt trội cả về binh lực lẫn phương tiện chiến tranh.

Những kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy thực hành tác chiến phong phú của ông được trình bày trong rất nhiều các ấn phẩm khác nhau, từ chiến thuật tổ ba người trong chiến tranh du kích đến những tài liệu nghiên cứu lý luận chính trị – quân sự trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Những tác phẩm ấy và những kinh nghiệm tràn đầy mầu sắc của chiến trường gian khổ, phức tạp thật sự có rất nhiều giá trị thực tiễn cho xây dựng quân đội Nga ngày nay, theo hai phương diện sau:

 

Thứ nhất: Kinh nghiệm vô cùng độc đáo về xây dựng lực lượng vũ trang trong điều kiện vô cùng khó khăn khi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù có tiềm lực quân sự, kinh tế lớn hơn gấp nhiều lần và kéo rất dài thời gian chiến tranh, lực lượng quân đội xâm lược đã chiếm một phần lớn diện tích lãnh thổ và cuộc chiến đấu hoàn toàn nằm trong vòng vây kẻ thù;

Thứ hai: Hiệu quả tuyệt đối của những phương pháp xây dựng lực lượng, đấu tranh trong lòng địch, chiến tranh giải phóng đã gây ấn tượng rất mạnh với Lầu Năm góc Mỹ, đến nỗi đã có hẳn một đơn vị nghiên cứu các tài liệu và bài viết của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Dựa trên cơ sở các phân tích, đánh giá và nhận xét của đại tướng Võ Nguyên Giáp, các chuyên gia Mỹ đã phát triển một phương pháp luận về tổ chức và tiến hành các cuộc nổi dậy và chiến tranh du kích. Chương trình đó được CIA và các lực lượng đặc biệt Mỹ áp dụng trong các hoạt động ở nước ngoài đến tận ngày nay. Những lý luận căn bản của di sản quân sự Đại tướng Võ Nguyên Giáp có thể tóm tắt những điểm như sau:

Xây dựng lực lượng

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định rằng đặc điểm trọng tâm của xây dựng lực lượng vũ trang trong điều kiện kháng chiến (chiến tranh chống lại lực lượng quân sự xâm lược có quân số và vũ khí trang bị hiện đại) là cần phải song song tiến hành và điều hành khoa học 3 quá trình:

1- Xây dựng lực lượng trong chiến đấu thực tế (vừa chiến đấu vừa xây dựng)

2 –  Liên tục đổi mới và hoàn thiện cơ cấu tổ chức

3 – Tổ chức và xây dựng các đơn vị quân đội, các lực lượng quân binh chủng và có thể hình thành các lực lượng hoàn toàn mới.

Công tác tổ chức và xây dựng lực lượng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng. Cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang theo mô hình QĐND Việt Nam thời kỳ chiến tranh dù rất nhỏ vẫn có thể tổ chức tiến công phòng ngự trên toàn bộ địa bàn lãnh thổ, bao gồm cả vùng địch tạm chiếm hay vùng tự do, hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân: Dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, bộ đội chính quy với các quân binh chủng và các lực lượng đặc nhiệm.

Một lực lượng chính quy nhỏ nhất, theo những bài học kinh nghiệm của đại tướng Võ Nguyên Giáp, có thể tổ chức và tiến hành các hoạt động tác chiến, có thể trở thành một ban lãnh đạo kháng chiến trên một vùng rộng lớn (khu dân cư, khu vực rộng), tổ chức và điều hành các đơn vị dân quân du kích. Phối hợp hành động với dân quân du kích là lực lượng bộ đội địa phương – lực lượng hợp thành, được biên chế tổ chức, tiếp nhận cơ sở vật chất từ địa phương và hoạt động tác chiến trong khu vực phòng thủ (khu vực địa lý hoặc hành chính). Bộ tư lệnh lực lượng bộ đội địa phương gắn kết hoạt động với cơ quan lãnh đạo chính trị và tư tưởng tinh thần, các cơ quan này thường có địa điểm tại các vùng giải phóng hoặc các khu vực kiểm soát bởi lực lượng kháng chiến.

 

 

Bộ tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang tiến hành các hoạt động lãnh đạo các cuộc đấu tranh một cách tập trung, trực tiếp điều hành các chiến dịch lớn mang tầm chiến lược chiến dịch hoặc tiến hành các hoạt động mang tính chiến lược. Trong các trận đánh có sự tham gia của các quân chủng và bộ đội chủ lực chính quy, quyền lãnh đạo thuộc bộ tổng tham mưu. Cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang như vậy đảm bảo khả năng điều hành lực lượng vũ trang linh hoạt, năng động, đồng thời tăng cường khả năng sống còn và bền vững của quân đội chính quy, dựa vào cơ cấu tổ chức trên quy mô rộng và sâu của lực lượng kháng chiến bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cũng như các cơ quan địa phương chủ động điều hành và quản lý.

 

Điểm yếu nhất của tất cả các lực lượng vũ trang mạnh là hệ thống hậu cần kỹ thuật và cơ sở vật chất đảm bảo. Theo nguyên tắc tổ chức của Đại tướng, đã phát triển một quan điểm hậu cần chiến lược là kết hợp giữa hậu cần địa phương tại chỗ và hậu phương chiến trường trên cả nước. Ý nghĩa quan trọng của quan điểm hậu cần tại chỗ là sử dụng toàn bộ nguồn tài nguyên cơ sở vật chất cả nước để tổ chức khai thác nguồn tài nguyên của những khu vực được giải phóng. Như vậy, khu du kích với căn cứ hậu cần du kích đã có ý nghĩa và giá trị ngang nhau.

Sự phát triển các khu giải phóng được tiến hành theo mô thức sau:

– Hình thành cơ sở chính trị cơ bản;

– Tổ chức căn cứ hậu cầu kỹ thuật dựa trên cơ sở cơ cấu chính trị vừa được thành lập;

– Huy động mọi nguồn lực nhằm biến hậu phương của kẻ thù thành chiến trường nóng bỏng, đảm bảo sự an toàn của căn cứ kháng chiến.

Nghệ thuật quân sự

Mục tiêu chiến lược của các lực lượng kháng chiến là đánh đuổi hoàn toàn lực lượng xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước. Nhằm đạt được mục tiêu đó, một lực lượng quân sự không đông và không được trang bị đầy đủ của phong trào kháng chiến, theo quan điểm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ có thể chứng minh cho hệ thống lãnh đạo chính trị của lực lượng xâm lược thấy được là không thể tiến hành một cuộc chiến tranh chớp nhoáng, nhanh chóng dành thắng lợi.

Do đó – chiến lược chiến tranh nhân dân là trường kỳ kháng chiến. Đại tướng nhận định hoạt động cơ bản của tác chiến chớp nhoáng tốc độ cao của các lực lượng quân sự có vũ khí trang bị hiện đại và quân số đông là sự tập trung các cụm binh lực, cơ giới thiết giáp lớn. Trước tình hình đó, lực lượng phòng ngự yếu hơn cần tiến hành các hoạt động tác chiến theo định hướng ngăn chặn, phá hoại khả năng địch có thể sử dụng các cụm binh lực tấn công chủ lực này. Thực hiện ý đồ tác chiến, các lực lượng kháng chiến trong chiến đấu phòng ngự phải chuyển sang tấn công các căn cứ và các đơn vị hành quân về địa điểm tập kết của đối phương, tấn công trong giai đoạn địch triển khai lực lượng, chia một trận đánh lớn của đối phương thành rất nhiều các trận đánh nhỏ – lực lượng giữa ta và địch đan xen vào nhau – như cài răng lược, đây là cách mô tả của đại tướng.

 

Thay vào một cuộc tấn công chớp nhoáng mà địch mong muốn, chúng sẽ phải tiến hành rất nhiều các trận chiến đấu phòng ngự bắt buộc. Phá hủy ý đồ tác chiến của đối phương, tạo ra các tình huống chiếm ưu thế trong từng khu vực, lực lượng kháng chiến có thể tập trung tạo điều kiện thuận lợi và khi thời cơ xuất hiện – tiến công giành thắng lợi.

Trong các tác phẩm và các bài viết của đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần khẳng định, giải pháp duy nhất đối với lực lượng yếu hơn không biến mình thành con mồi cho cuộc đi săn – đó là tiến hành những hoạt động chiến đấu tiến công, buộc đối phương phải quan tâm đến sự an toàn của chính mình.

Trong mọi trường hợp, nếu lực lượng kháng chiến thể hiện một chút dù rất nhỏ sự thụ động và phụ thuộc tình huống chiến trường, lực lượng quân xâm lược – có ưu thế về quân số và vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại – sẽ nhanh chóng tiến hành các chiến dịch bao vây, truy quét và tấn công tiêu diệt. Máy bay trực thăng bao giờ cũng hoạt động nhanh chóng và hiệu quả hơn người lính bộ binh, do đó nếu để đối phương phát hiện và chiếm ưu thế, lực lượng kháng chiến chắc chắn sẽ đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt.

Đại tướng cũng chỉ rõ: Trong mọi hoạt động chiến đấu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của lực lượng kháng chiến là làm sao buộc các lực lượng chiến đấu hiện đại (máy bay trực thăng, các lực lượng chiến đấu cơ động cao, không quân cường kích và các lực lượng đổ bộ) phải bỏ các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt để thực hiện các nhiệm vụ kém ý nghĩa hơn như bảo vệ các căn cứ của họ và các cuộc hành quân. Phương pháp tác chiến này bắt buộc phải thực hiện không chỉ là các lực lượng quân đội chính quy trên lãnh thổ do địch chiếm đóng, mà các lực lượng dân quân du kích và tự vệ địa phương, được trang bị yếu hơn cũng phải thực hiện.

 

Một điểm rất thú vị và có ý nghĩa thực tiễn lớn, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ ra 5 tính chất đặc trưng, thể hiện bản chất của nghệ thuật chỉ huy, điều hành tác chiến các lực lượng quân sự trong kháng chiến. Những tính chất đó là:

– Chiến tranh toàn dân – Tập trung toàn bộ sức mạnh trên các mặt trận và tiềm lực của toàn dân để tiến hành các hoạt động đấu tranh chống kẻ thù xâm lược;

– Chiến đấu tiến công, các hoạt động phòng ngự trong thời gian ngắn chỉ để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chiến đấu tiến công – không có tâm lý phòng thủ giữ đất;

– Giành chiến thắng trước kẻ thù có số đông và có ưu thế về phương tiện, vũ khí, trang thiết bị hiện đại bằng phương pháp tạo thời cơ, lập thế trận đánh địch hiệu quả;

– Đưa thực tế chiến trường vào việc lập kế hoạch tác chiến chiến dịch – tiêu diệt hoàn toàn các cụm binh lực địch có số lượng không lớn hơn trung đoàn và lữ đoàn dựa vào ưu thế chủ động chiến đấu tấn công, chứ không dựa vào ưu thế vũ khí trang bị (tiêu diệt các cụm binh lực có số lượng lớn hơn không thực tế do đối phương có ưu thế tuyệt đối về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh và yểm trợ hỏa lực);

– Tiến hành những hoạt động tác chiến bất ngờ, giữ bí mật tuyệt đối mọi hoạt động nghiên cứu lập kế hoạch và điều hành lực lượng, từ đó hình thành yếu tố bất ngờ trong chiến đấu tiến công.

Bắt đầu từ Afgganistan, quân đội Liên Xô và Nga đã phải chiến đấu hơn 20 năm với các lực lượng Mujahideen (chiến binh Hồi giáo), hàng chục ngàn chiến binh đã được huấn luyện và đào tạo theo chương trình khủng bố, xâm lược vũ trang biên giới lãnh thổ và phá hoại an ninh nước Nga.

Những sự kiện lan tỏa từ phong trào “mùa xuân Ả rập” đến nay hoàn toàn không cho chúng ta một hy vọng nhỏ nhoi về khả năng những lực lượng đó sẽ để thế giới được yên bình. Để sẵn sàng bẻ gãy mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, những di sản quân sự của đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là những bài học có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi mới các phương thức tác chiến, tiến hành các cuộc chiến tranh chống khủng bố và bảo vệ sự bình yên của đất nước.

Theo TIỀN PHONG



#35
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Giai thoại về nhà toán học Vũ Hữu – ‘Archimedes của Đại Việt’

Vũ Hữu là nhà toán học lớn của nước ta. Theo sử sách, khi được vua giao trọng trách xây cửa thành, ông đã tính toán chính xác tới mức không thừa, thiếu viên gạch nào.

Da-che.jpg

Vũ Hữu (1437-1530), quê ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay. Sau khi thi đỗ hoàng giáp năm 1463, ông ra làm quan, trở thành đại thần của nhà Hậu Lê. Cùng với Lương Thế Vinh, ông chính là một trong hai nhà toán học lớn nhất của nước ta trong thời phong kiến.

Cuốn sách Lập thành Toán pháp của ông là công trình chuyên về toán học đầu tiên của nước ta. Lập thành toán pháp cùng phương pháp đo diện tích ruộng đất nhanh chóng được phổ biến ra cả nước.

.

Theo sách Công dư tiệp ký, thấy mấy cửa thành Thăng Long xây dựng từ thời Lý -Trần đã hư hỏng, vua Lê Thánh Tông giao cho một số đại thần tính toán lượng gạch cần thiết để xây lại.

Sau cả tháng đo đạc, bàn cãi, tranh luận, mấy vị đại thần vẫn không sao tính ra được số gạch cần sử dụng. Nghe tin Khâm hình viên lang trung (chức quan chuyện coi về hình luật, xét xử) Vũ Hữu có biệt tài đo đạc, tính toán, vua liền triệu ông đến giao nhiệm vụ.

Xây thành không thừa, không thiếu một viên gạch

Vũ Hữu đến quan sát các cửa thành, tính toán rồi tâu với vua rằng: “Thần đã xem kỹ cửa Đông Hoa, thấy hỏng nhiều hơn cả. Cửa đó lại lớn nhất, xây dựng khó hơn, xin bệ hạ cho sửa cửa này trước”.

Chấp nhận ý kiến đề xuất của Vũ Hữu, vua Lê Thánh Tông yêu cầu ông phải tiến hành thật khẩn trương, không được kéo dài như những đại thần trước. Ngay tối hôm đó, Vũ Hữu thắp đèn suốt đêm ra cửa Đông Hoa đo đạc.

Hôm sau vào triều, ông tấu trình lên vua cùng văn võ bá quan kết quả tính toán, số gạch cần thiết để xây lại cổng thành này. Mấy viên đại thần trước đó thấy Vũ Hữu tính toán số gạch sai lệch với họ nhiều quá nên bẽ mặt, tức tối. Ỷ thế cận thần, họ ton hót với vua: “Xin bệ hạ chớ vội tin lời của quan Lang trung kẻo hỏng việc hệ trọng”.

Một người khác “phụ họa” thêm rằng vua hãy ra lệnh cho quan Lang trung, nếu tính sai gạch sẽ bị trị tội.

Vua Lê Thánh Tông nhìn Vũ Hữu hỏi: Nhà ngươi thấy ý kiến đình thần đề xuất thế nào?”.

Giữ thái độ thản nhiên, Vũ Hữu đáp: “Tâu bệ hạ, thần xin lĩnh ý”.

Đúng ngày khởi công, các quan kéo đến túc trực trước cổng Đông Hoa. Mấy viên quan đại thần sợ Vũ Hữu tranh mất công trạng, muốn vin vào luật Hồng Đức để trị tội ông “lừa dối vua” nên cố tình giấu đi một viên gạch. Sau khi phát hiện, Vũ Hữu đã tâu với vua, cuối cùng vụ việc được làm rõ.

Suốt thời gian sửa cổng thành, Vũ Hữu đứng chỉ đạo đám thợ làm việc. Cổng thành được xây xong, vua Lê Thánh Tông rất hài lòng. Tuy vậy, mấy viên đại thần hôm trước tức tối la lên: “Quan Lang trung, ngài tính toán rất tài, thế mà vẫn còn thừa một viên”.

“Xin các ngài hãy thư thả, viên gạch đó tôi đã tính toán trước, dùng để thay thế viên gạch bị vỡ ở tường thành phía Tây cửa Đông Hoa”, Vũ Hữu nói.

Dứt lời, ông chỉ cho thợ đục viên gạch vỡ và thay bằng viên gạch thừa. Lúc này, mọi người đều khâm phục ông. Vua Lê Thánh Tông ban chiếu khen thưởng và giao cho ông đôn đốc, sửa chữa những cổng thành tiếp theo.

“Cậu bé Archimedes của Đại Việt”

Tài năng Toán học của Vũ Hữu được bộc lộ khi ông còn rất nhỏ. Theo sách Kể chuyện thần đồng Việt Nam, một lần, cậu bé Vũ Hữu cùng cha Vũ Bá Khiêm sang nhà bà con chơi.

Bấy giờ, ông chủ nhà có cái điếu thuốc lào khảm bạc, được chạm trổ rất kỳ công, cả vùng không ai có. Trong cuộc hàn huyên giữa hai người, ông chủ nhà muốn làm cái nỏ điếu bằng bạc nhưng ngặt nỗi không biết tính toán thế nào để mua đủ bạc. Nhớ đến cậu bé Hữu, ông nhờ tính toán toán lượng bạc cần thiết.

Vũ Hữu cầm cái nỏ điếu trên tay, chưa biết tính toán thế nào thì chủ nhà đã rót một chén trà đưa cho cậu bé và bảo: “Uống chén trà cho minh mẫn đầu óc đã cháu”.

Đưa tay cầm chén trà, nhìn nước trong cốc sóng sánh, đầu cậu bé vụt lên ý tưởng. Vũ Hữu cầm ấm trà rót thêm vào cốc cho đến khi nước chảy lênh láng ra ngoài.

Ông Khiêm thấy thế bực lắm, mọi lần con trai mình có hỗn thế đâu. Ông chưa kịp tỏ thái độ thì Vũ Hữu vui mừng reo lên: “Cháu tính được rồi”.

Cậu bé bỏ chiếc nỏ điếu vào chén trà đầy nước đặt trong chiếc đĩa, rồi rót số nước trào ra ngoài vào một chén không và nói: “Số bạc cần mua để đúc nỏ điếu bằng đúng số nước trong chén này”.

Cách giải toán của Vũ Hữu khiến chúng ta liên tưởng tới chuyện nhà bác học người Hy Lạp là Archimedes trước đó từng có phương pháp tương tự để tính ra lượng vàng trên vương miện của nhà vua.

Ngày nay, với những thành tựu toán học hiện đại, bài toán của Vũ Hữu có thể không hề làm khó được các bạn trẻ. Tuy nhiên, ở thế kỷ 15, khi trình độ toán học của người Việt còn rất hạn chế, đó là sáng kiến lớn, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN



#36
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Khổng Tử: Học thơ có lợi ích gì?

Thơ vừa là văn học lại vừa là triết học, đồng thời cũng bao gồm cả những phương diện văn hoá, nghệ thuật khác, cho nên học thơ có thể đồng thời bồi đắp tố chất, hàm dưỡng về nhiều phương diện. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử khuyên người trẻ tuổi học thơ, bởi nó có rất nhiều lợi ích.

Khong-Tu-hoc-tho-00.jpg

Khổng Tử nói: “Tiểu tử hà mạc học phu thi? Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán.” (Dương hoá đệ thập thất – Luận Ngữ). Câu này nghĩa là gì?

Những người trẻ tuổi chi bằng học thơ nhiều hơn một chút, học thơ có nhiều lợi ích. Có thể “Hưng”, có thể “Quan”, có thể “Quần”, có thể “Oán”.

Thứ nhất có thể “Hưng”. “Hưng” là biểu đạt tâm tình, nguyện vọng, bày tỏ tâm ý, tình cảm.

Hai là có thể “Quan” (Quan sát). Thơ là lời văn biểu đạt tâm tình, chí hướng, thông qua những vần thơ có thể trải nghiệm và quan sát được tâm cảnh của thi nhân, quan sát xã hội lúc bấy giờ. Cho nên đọc thơ có thể nhận được sự gợi mở và minh bạch rất nhiều cách đối nhân xử thế.

Ba là có thể “Quần” (Chung sống với người khác). Học thơ, tâm tính sẽ được tu dưỡng tốt hơn. Khi tố chất tự thân được đề cao rồi, con người sẽ biết cách chung sống hài hoà với người khác.

Thứ tư có thể “Oán”. Học thơ có thể than phiền, trách móc. Bởi lẽ có thể dùng thơ mà biểu đạt sự bất bình trong tâm, từ đó khơi thông và dẫn dắt nó, giải hay tỏ nỗi lòng.

Trong “Thi Kinh” có không ít vần thơ bày tỏ sự u uất, ai oán như bài “Phạt Đàn”, “Thạc Thử”. Những vần thơ ai oán của hậu thế còn nhiều hơn. Như khi Nhạc Phi, một danh tướng thời Nam Tống, bị gian thần bài xích, chẳng thể thi triển chí báo quốc, đã dùng thơ để xoa dịu nỗi phẫn uất, cảm khái trong tâm:

Tiểu trùng sơn

Tạc dạ hàn cung bất trú minh.
Kinh hồi thiên lý mộng,
Dĩ tam canh.
Khởi lai độc tự nhiễu giai hành,
Nhân tiễu tiễu,
Liêm ngoại nguyệt lung minh.

Bạch thủ vị công danh.
Cựu sơn tùng trúc lão,
Trở quy trình.
Dục tương tâm sự phó dao tranh.
Tri âm thiểu,
Huyền đoạn hữu thuỳ thinh.

Tạm dịch:

Tiểu Trùng Sơn

Dế lạnh vỉ van suốt đêm thâu
Chợt tỉnh ngàn dặm cơn mộng sâu
Canh ba đã vẳng
Bên thềm một bóng quẩn quanh bước
Dáng người trầm mặc
Ngoài mành trăng treo ánh vằng vặc.

Công danh đánh vật bạc đầu râu
Thông tre cằn cỗi núi xưa sầu
Gian nan nẻo về
Nỗi lòng mong gửi cung đàn xa
Tri âm mấy kẻ!
Tơ huyền đứt đoạn có ai nghe?

(Bản dịch của Lâm An)

Nói xong về bốn lợi ích của thơ rồi, Khổng Tử lại tiếp lời: “Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; Đa thức ư điểu, thú, thảo, mộc chi danh.” (Dương hoá đệ thập thất – Luận Ngữ)

“Nhĩ chi sự phụ”, nói gần thì là việc phụng dưỡng cha mẹ. Bởi lẽ có sự hàm dưỡng của nghệ thuật, có thái độ lạc quan, nên càng hiểu cách làm thế nào để phụng dưỡng song thân, bởi Nho gia coi trọng đạo Hiếu. “Viễn chi sự quân”, nói xa thì có thể cống hiến cho quốc gia, xã tắc, vì hiểu được học vấn “trị quốc bình thiên hạ”. Cho nên sau khi có được những tố chất, hàm dưỡng cơ bản của một cá nhân này, thì dẫu làm gì cũng đều không hướng về phía bất lợi.

 

“Đa thức ư điểu, thú, thảo, mộc chi danh” nghĩa là biết tới tên của các loài chim muông, cầm thú, cỏ cây, hoa lá. “Thi Kinh” bao hàm một tri thức vô cùng rộng. Những loài chim bay, thú chạy, cỏ cây, hoa lá được nhắc tới rất nhiều. Trong quá trình tìm hiểu ý thơ cũng có thể học được những tri thức về động vật học, thực vật học và cả những tri thức về thiên văn, địa lý. Bởi lẽ “Thi Kinh” đều đề cập tới những phương diện này.

Lục Cơ Trữ, một học giả thời Nguỵ Tấn có bài “Mao thi thảo mộc trùng ngư sơ”, là một trước tác giải thích về các loài động thực vật được nhắc tới trong “Thi Kinh”, tổng cộng ghi chép lại 175 loài động vật. Ông không chỉ ghi lại tên những loài sinh vật, mà còn miêu tả hình dáng, môi trường sinh thái và giá trị sử dụng của nó.

Trên đây là những lợi ích khi học thơ mà Khổng Tử nhắc tới. Đương nhiên để thực sự sản sinh được tác dụng này, cần bản thân người học thơ đổ tâm đổ sức. Học thơ nhất định phải như thân nằm trong cảnh, đồng thời kết hợp với cuộc sống của bản thân, mà suy ngẫm về cuộc đời của mình, lâu dần ắt sẽ có được niềm vui “thần giao cổ nhân” – linh cảm kết nối với cổ nhân.

Thiên Cầm






0 người đang xem chủ đề

0 thành viên, 0 khách, 0 thành viên ẩn danh