Chứng minh kì diệu của Andrew Wiles
Fermat nổi tiếng với tuyên bố rằng ông đã tìm ra "một chứng minh thực sự kỳ diệu" cho Định lý Cuối cùng của mình, nhưng lề sách trong bản sao của tác phẩm Arithmetica của Diophantus không đủ chỗ để chứa nó. Dù chứng minh đó (nếu từng tồn tại) đã bị mất, trong hơn hai thập kỷ qua và đã giúp ông nhận giải thưởng Abel. Theo lời trích dẫn từ giải thưởng, Wiles xứng đáng được vinh danh "vì chứng minh đầy ấn tượng của Định lý Cuối cùng của Fermat thông qua giả thuyết modularity đối với các đường cong elliptic bán ổn định, mở ra một kỷ nguyên mới trong lý thuyết số".
Ít ai có thể không bị cuốn hút bởi sức hấp dẫn của Định lý Cuối cùng của Fermat, một câu đố bắt nguồn từ toán học Hy Lạp cổ đại, đơn giản đến mức một người mới học (như cậu bé $10$ tuổi Andrew Wiles khi dạo qua kệ sách tại thư viện công cộng địa phương) cũng có thể hiểu và đánh giá cao, nhưng lại thách thức nỗ lực của những bộ óc xuất sắc nhất trong hơn ba thế kỷ. Qua lịch sử dài của nó, định lý này đã trở thành đối tượng của những giải thưởng giá trị như giải Wolfskehl và, quan trọng hơn, đã thúc đẩy một loạt khám phá cơ bản: phương pháp hạ vô hạn của Fermat, lý thuyết ideal của Kummer, giả thuyết ABC, cách tiếp cận của Frey đối với các phương trình Diophantine bậc ba, giả thuyết của Serre về biểu diễn Galois mod p, v.v.
Ngay cả khi không có mối liên hệ tình cờ với Định lý Cuối cùng của Fermat, định lý modular của Wiles cũng là một tuyên bố cơ bản về các đường cong elliptic (như được minh chứng, chẳng hạn, qua vai trò quan trọng của nó trong chứng minh Định lý 2 trong bài viết của Karl Rubin được đề cập trong số đặc biệt của Notices of the AMS). Đây cũng là trung tâm của “chương trình Langlands”, công trình đồ sộ và đầy tham vọng với những kết quả và giả thuyết đã chi phối cái nhìn của các nhà lý thuyết số về thế giới. Chương trình này được mô tả như một “thuyết thống nhất lớn” của toán học.
Từ một góc nhìn Na Uy, nó kết nối các đối tượng xuất hiện trong tác phẩm của Niels Hendrik Abel, chẳng hạn như các đường cong elliptic, các tích phân abel và các biểu diễn Galois liên quan của chúng, với (thường là vô hạn chiều) các biểu diễn tuyến tính của các nhóm biến đổi liên tục, lĩnh vực nghiên cứu được tiên phong bởi Sophus Lie. Báo cáo này tập trung vào vai trò của Định lý Wiles và “chứng minh kỳ diệu” của nó trong chương trình Langlands, nhằm minh họa cho cụm từ kết thúc trong lời trích dẫn từ giải thưởng: cách chứng minh của Wiles đã mở ra “một kỷ nguyên mới trong lý thuyết số” và tiếp tục có tác động sâu sắc, lâu dài đến toán học.
Chuyến “tham quan cho người mới bắt đầu” của chúng tôi về chương trình Langlands chỉ mang đến một cái nhìn phiến diện và chắc chắn là thiên lệch về bức tranh toàn cảnh, phản ánh những hạn chế của tác giả cũng như giới hạn cố hữu của cách tiếp cận dành cho độc giả phổ thông. Chúng tôi sẽ giới thiệu chương trình Langlands bằng cách bắt đầu với một thảo luận về các phương trình Diophantine: trong khuôn khổ bài viết này, chúng là các phương trình có dạng
\begin{equation}
\mathcal{X}: \ \ \ \ P(x_1,...,x_{n+1})= 0
\end{equation} trong đó $P$ là một đa thức theo các biến $x_1,...,x_{n+1}$ với hệ số nguyên (đôi khi hữu tỷ). Người ta có thể khảo sát tập hợp kí hiệu bởi $\mathcal{X}(F)$, của các nghiệm của $(1)$ với hệ số trong bất kì vành $F$ nào. Như chúng ta sẽ thấy, chủ đề này thu hút sự quan tâm chủ yếu nhờ vào những cách thức sâu sắc và tinh tế mà biểu hiện của các tập nghiệm khác nhau có thể cộng hưởng lẫn nhau, ngay cả khi những tập $\mathcal{X}(\mathbb{Z})$ và $\mathcal{X}(\mathbb{Q})$ gồm các nghiệm nguyên và hữu tỷ là mối bận tâm trước nhất của chúng ta. Ví dụ cho các phương trình Diophantine bao gồm phương trình Fermat $x^d+y^d=z^d$ và phương trình Brahmagupta-Pell $x^2-Dy^2=1$ với $D >0$ cũng như các phương trình đường cong elliptic có dạng $y^2=x^3+ax+b$, trong đó $a$ và $b$ là các tham số hữu tỷ, các nghiệm $(x,y)$ với toạ độ hữu tỷ là đối tượng được quan tâm trong trường hợp sau.
Có thể hữu ích khi tiếp cận một phương trình Diophantine bằng cách đầu tiên nghiên cứu các nghiệm của nó trên các vành đơn giản, chẳng hạn như các trường đầy đủ gồm các số thực hoặc số phức. Tập hợp
\begin{equation}
\mathbb{Z}/n\mathbb{Z} := \left \{0, 1, \dots, n - 1 \right \}
\end{equation} các số dư sau khi chia cho một số nguyên $n \geq 2$, cùng với các phép toán tự nhiên của nó như phép cộng, phép trừ và phép nhân, là một tập hợp các số đặc biệt đơn giản, có lực lượng hữu hạn. Nếu $n = p$ là một số nguyên tố, vành này thậm chí còn là một trường: nó được trang bị thêm phép chia cho các phần tử khác 0, giống như các tập hợp quen thuộc hơn của số hữu tỉ, số thực và số phức.
Việc $\mathbb{F}_p := \mathbb{Z}/p\mathbb{Z}$ là một trường là một đặc điểm đại số của số nguyên tố, và đặc điểm này là cơ sở cho hầu hết các thuật toán kiểm tra tính nguyên tố và phân tích thành thừa số hiệu quả hiện nay.
Một trong những đóng góp lớn của Évariste Galois, bên cạnh lý thuyết cùng tên đóng vai trò quan trọng trong công trình của Wiles, là phát hiện ra một trường có lực lượng $p^r$ với bất kỳ lũy thừa nguyên tố $p^r$ nào. Trường này, ký hiệu là $\mathbb{F}_{p^r}$ và đôi khi được gọi là trường Galois với $p^r$ phần tử, thậm chí là duy nhất chính xác tới đẳng cấu.
Với một phương trình Diophantine $\mathcal{X}$ như trong $(1)$, bất biến cơ bản nhất của tập hợp
\begin{equation}
\mathcal{X}(\mathbb{F}_{p^r}) \coloneqq \left \{(x_1,...,x_{n+1}) \in \mathbb{F}_{p^r} \ \text{such that} \ P(x_1,...,x_{n+1}) = 0 \right \}
\end{equation} của các nghiệm trên $\mathbb{F}_{p^r}$ chắc chắn là lực lượng
\begin{equation}
N_{p^r} \coloneqq \# \mathcal{X}(\mathbb{F}_{p^r}).
\end{equation} Những quy luật nào (nếu có) thoả mãn bởi dãy số
\begin{equation}
N_p, N_{p^2},N_{p^3},...,N_{p^r},...?
\end{equation} Dãy này có thể được gói vào trong các chuỗi sinh như
\begin{equation}
\sum_{r=1}^{\infty}N_{p^r}T^r \ \ \ \ \text{và} \ \ \ \ \sum_{r=1}^{\infty}\frac{N_{p^r}}{r}T^r.
\end{equation} Vì lý do kĩ thuật, tốt nhất là ta xét hàm mũ của chuỗi thứ hai:
\begin{equation}
\zeta_p(\mathcal{X};T) \coloneqq \exp \left( \sum_{r=1}^{\infty}\frac{N_{p^r}}{r}T^r \right).
\end{equation} Chuỗi luỹ thừa theo $T$ này được gọi là hàm zeta của $\mathcal{X}$ trên $\mathbb{F}_p$. Nó có các hệ số nguyên và thoả mãn các tính chất đáng chú ý sau:
- Nó là một hàm hữu tỷ theo $T$:\begin{equation} \zeta_p(\mathcal{X};T) = \frac{Q(T)}{R(T)},\end{equation} trong đó $Q(T)$ và $R(T)$ là các đa thức theo $T$ với bậc (hầu hết ngoại trừ một số hữu hạn) độc lập với $p$ và được xác định bởi hình dạng - tôpô phức - của tập $\mathcal{X}(\mathbb{C})$ các nghiệm phức.
- Các nghiệm phản xạ của $Q(T)$ và $R(T)$ là các số phức với chuẩn $p^{i/2}$ với $i$ là một số nguyên trong khoảng $0 \leq i \leq 2n$.
Việc hành vi tiệm cận của $N_p$ có thể dẫn đến những hiểu biết sâu sắc về biểu hiện của các phương trình Diophantine liên quan là một trong những ý tưởng then chốt đằng sau giả thuyết Birch và Swinnerton-Dyer.
Hiểu được các quy luật thoả mãn bởi các hàm
\begin{equation}
p \mapsto N_p \ \ \ \ \text{và} \ \ \ \ p \mapsto \zeta_p(\mathcal{X};T)
\end{equation} với số nguyên tố $p$ thay đổi cũng sẽ đóng vai trò câu hỏi động lực cho chương trình Langlands.
Hóa ra, việc gói gọn các hàm zeta trên tất cả các trường hữu hạn thành một hàm duy nhất của biến phức $s$ bằng cách lấy tích vô hạn lại rất hữu ích
\begin{equation}
\zeta(\mathcal{X};s) = \prod_p \zeta_p(\mathcal{X};p^{-s})
\end{equation} với $p$ chạy trên tất cả các số nguyên tố. Trong trường hợp phương trình Diophantine không tầm thường đơn giản nhất $x=0$, có tập nghiệm trên $\mathbb{F}_{p^r}$ bao gồm đúng một điểm, ta có $N_{p^r}=1$ với mọi $p$ và do đó
\begin{equation}
\zeta_p(x=0;T) = \exp \left(\sum_{r \geq 1}\frac{T^r}{r} \right) = (1-T)^{-1}.
\end{equation} Theo đó
\begin{align}
\zeta(x=0;s) & = \prod_p \left(1 - \frac{1}{p} \right)^{-1} \\
& = \prod_p \left(1 + \frac{1}{p^s} + \frac{1}{p^{2s}} + \frac{1}{p^{3s}} + \cdots \right) \\
& = \sum_{n=1}^{\infty}\frac{1}{n^s} = \zeta(s).
\end{align} Do đó, hàm zeta của ngay cả phương trình Diophantine khiêm tốn nhất cũng là một đối tượng trung tâm của toán học: hàm zeta Riemann nổi tiếng, gắn liền với một số câu hỏi sâu sắc nhất liên quan đến sự phân bố của các số nguyên tố. Trong hồi kí vĩ đại năm $1860$ của mình, Riemann đã chứng minh rằng, mặc dù $(13)$ và $(14)$ chỉ hội tụ tuyệt đối trên nửa mặt phẳng bên phải $\mathfrak{R}(s)>0$, hàm $\zeta(s)$ thác triển thành một hàm phân hình theo $s \in \mathbb{C}$ (với một cực đơn duy nhất tại $s=1$) và sở hữu một phương trình hàm tao nhã liên hệ các giá trị của nó tại $s$ và $1-s$. Các hàm zeta của các phương trình tuyến tính $\mathcal{X}$ theo $n+1$ biên chỉ là phép dịch đi của hàm zeta Riemann, do $N_{p^r}$ bằng $p^{nr}$, và do đó $\zeta(\mathcal{X};s) = \zeta(s-n)$.
Chuyển sang các phương trình bậc hai, phương trình bậc hai một biến tổng quát có dạng $ax^2+bx+c=0$ và biểu hiện của nó bị kiểm soát bởi biệt thức
\begin{equation}
\Delta \coloneqq b^2-4ac.
\end{equation} Sự thật đại số thuần tuý vẫn đúng trên các trường hữu hạn và, với các số nguyên tố $p \nmid 2a\Delta$, ta có
\begin{equation}
N_p = \begin{cases}
0 & \text{nếu} \ \Delta \ \text{không là bình phương modulo} \ p, \\
2 & \text{nếu} \ \Delta \ \text{là bình phương modulo} \ p.
\end{cases}
\end{equation} A priori, tiêu chuẩn cho việc liệu $N_p=2$ hay $0$ - liệu số nguyên $\Delta$ là hay không là bình phương thặng dư modulo $p$ - dường như là một điều kiện tinh tế cho số nguyên tố $p$. Để có một cảm giác tốt hơn về điều kiện này, xét ví dụ phương trình $x^2-x-1=0$, theo đó $\Delta = 5$. Tính toán rằng liệu $5$ là một bình phương hay không modulo $p$ cho một số ít các số nguyên tố $p \leq 101$ dẫn tới danh sách sau
\begin{equation}
N_p = \begin{cases}
2 & \text{với} \ p=11,19,29,31,41,59,61,71,79,89,101,... \\
0 & \text{với} \ p =2,3,7,13,17,23,37,43,47,53,67,73,83,...
\end{cases}
\end{equation} Một quy luật rõ ràng hiện ra từ thử nghiệm này: việc liệu $N_p = 0$ hay $2$ dường như chỉ phụ thuộc vào chữ số bên phải sau cùng của $p$, tức là vào số dư của $p$ modulo $10$. Ta được dẫn đến suy đoán rằng
\begin{equation}
N_p = \begin{cases}
2 & \text{nếu} \ p \equiv 1,4 \ (\textnormal{mod} \ 5), \\
0 & \text{nếu} \ p \equiv 2,3 \ (\textnormal{mod} \ 5),
\end{cases}
\end{equation} một công thức biểu diễn một sự cải thiện đáng kể so với $(16)$, cho phép một sự tính toán hiệu quả hơn nhiều cho $N_p$. Suy đoán trong $(18)$ thực tế là một hệ quả của luật thuận nghịch bình phương nổi tiếng của Gauss:
Quy luật lặp lại thoả mãn bởi các số $N_p$ khi $p$ thay đổi tạo điều kiện thuận lợi cho thao trên các hàm zeta của các phương trình bậc hai. Ví dụ, hàm zeta của $\mathcal{X}: x^2-x-1=0$ bằng với
\begin{equation}
\zeta(\mathcal{X};s) = \zeta(s) \times \Bigg\{\bigg(1 - \frac{1}{2^s} - \frac{1}{3^s} + \frac{1}{4^s} \bigg) + \bigg(\frac{1}{6^s} - \frac{1}{7^s} - \frac{1}{8^s} + \frac{1}{9^s} \bigg) + \bigg(\frac{1}{11^s} - \frac{1}{12^s} - \frac{1}{13^s} + \frac{1}{14^s} \bigg) + \cdots \Bigg\}.
\end{equation} Chuỗi xuất hiện phía bên phải là một ví dụ nguyên mẫu của $L$-chuỗi Dirichlet. Các $L$-chuỗi này, là những tác nhân chính trong chứng minh định lý Dirichlet về vô số số nguyên tố theo cấp số cộng, có nhiều tính chất giải tích giống như hàm zeta Riemann: một thác triển giải tích ra toàn bộ mặt phẳng phức và một phương trình hàm liên hệ các giá trị của chúng tại $s$ và $1-s$. Chúng cũng được kì vọng sẽ thoả mãn một giả thuyết Riemann mà mở rộng phát biểu ban đầu của Riemann và cũng sâu sắc và khó nắm bắt như vậy.
Đó là một thực tế (không hoàn toàn tầm thường) rằng hàm zeta của phương trình bậc hai tổng quát theo $n$ biến
\begin{equation}
\sum_{i,j=1}^n a_{ij}x_i x_j + \sum_{i=1}^n b_i x_i + c = 0
\end{equation} bao gồm các thành phần cơ bản giống nhau – chuỗi Dirichlet – như trong trường hợp một biến. Điều này có nghĩa là các phương trình diophantine bậc hai trong bất kỳ số lượng biến nào đều được hiểu rõ, ít nhất là đối với các hàm zeta của chúng.
Câu chuyện trở nên phức tạp khi xét đến các phương trình bậc cao hơn. Xét, ví dụ, phương trình bậc ba $x^3 - x - 1$ với biệt thức $\Delta = -23$. Với tất cả $p \neq 23$, phương trình bậc ba này không có nghiệm bội trên $\mathbb{F}_{p^r}$ và do đó $N_p = 0,1$ hoặc $3$. Một biểu thức đơn giản cho $N_p$ trongtruwowfng hợp này được cho bởi định lý sau đây của Hecke:
Định lý của Hecke suy ra rằng
\begin{equation}
\zeta(x^3-x-1;s) = \zeta(s) \times \sum_{n=1}^{\infty} a_n n^{-s},
\end{equation} với chuỗi sinh
\begin{equation}
F(q) \coloneqq \sum_{n=1}^{\infty} a_n q^n = q-q^2-q^3+q^6 +q^8-q^{13}-q^{16}+q^{23}+ \cdots
\end{equation} được cho bởi công thức cụ thể
\begin{equation}
F(q) = \frac{1}{2}\left( \sum_{a,b \in \mathbb{Z}} q^{a^2+ab+6b^2} - q^{2a^2+ab+3b^2}\right).
\end{equation} Hàm số $f(z) = F(e^{2\pi i z})$ phát sinh khi đặt $q= e^{2\pi i z}$ trong $(24)$ là một ví dụ nguyên mẫu của một dạng modular: cụ thể là, nó thoả mãn luật biến đổi
\begin{equation}
f\bigg( \frac{az+b}{cz+d}\bigg) = (cz+d)f(z), \ \ \ \ \begin{cases}
a,b,c,z\in \mathbb{Z} \ \ ad-bc=1, \\
23\mid c, \ \big(\frac{a}{23}\big) = 1,
\end{cases}
\end{equation} dưới cái được gọi là các phép thế modular có dạng $z \mapsto \frac{az+b}{cz+d}$. Tính chất này suy ra từ công thức tổng Poisson áp dụng cho biểu thức trong $(24)$. Cảm ơn $(25)$, hàm zeta của $\mathcal{X}$ có thể được thao tác dễ dàng như các hàm zeta của Riemann và Dirichlet. Thật vậy, Hecke chứng minh rằng $L$-chuỗi $\sum_{n=1}^{\infty} a_n n^{-s}$ gắn với một dạng modular $\sum_{n=1}^{\infty} a_n e^{2\pi i n z}$ sở hữu các tính chất giải tích rất tương tự, điển hình là thác triển giải tích và một phương trình hàm kiểu Riemann.
Chuỗi sinh $F(q)$ cũng có thể được biểu thị như một tích vô hạn:
\begin{equation}
\frac{1}{2}\left( \sum_{a,b \in \mathbb{Z}} q^{a^2+ab+6b^2} - q^{2a^2+ab+3b^2}\right) = q \prod_{n=1}^{\infty}(1-q^n)(1-q^{23n}).
\end{equation} Một vài số hạng đầu tiên của đẳng thức các chuỗi luỹ thừa này có thể dễ dàng được xác minh bởi tính toán trực tiếp nhưng chứng minh của nó là vô cùng không tầm thường và không trực tiếp. Nó khai thác tình huống mà không gian các hàm chỉnh hình theo $z$ thoả mãn luật biến đổi $(25)$ cùng với một số tính chất tăng trưởng phù hợp là mọt không gian vector phức một chiều mà cũng chứa tích vô hạn ở trên. Thật vậy, tích trên bằng với $\eta(q)\eta(q^{23})$, trong đó
\begin{equation}
\eta(q) = q^{1/24}\prod_{n=1}^{\infty}(1-q^n)
\end{equation} là hàm eta Dedekind có đạo hàm logarit (sau khi xem $\eta$ như một hàm của $z$ thông qua phép đổi biến $q=2^{\pi i z}$) được cho bởi
\begin{align}
\frac{\eta'(z)}{\eta(z)} & =-\pi i \left( \frac{-1}{12} + 2\sum_{n=1}^{\infty} \left(\sum_{d \mid n} d \right) e^{2\pi i n z} \right) \\
& = \frac{i}{4\pi}\sum_{m = -\infty}^{\infty}\sum_{n=-\infty}^{\infty} \frac{1}{(mz+n)^2},
\end{align} trong đó số hạng đính kèm với $(m,n)=(0,0)$ bị loại trừ trong tổng cuối cùng. Hàm eta Dedekind cũng được liên kết với chuỗi sinh cho hàm phân hoạch $p(n)$ mô tả số cách theo đó $n$ có thể được biểu diễn như một tổng của các số nguyên dương thông qua đẳng thức
\begin{equation}
\eta^{-1}(q) = q^{-1/24}\sum_{n=0}^{\infty} p(n)q^n,
\end{equation} đóng vai chính cùng với Jeremy Irons và DevPatel trong một bộ phim gần đây về cuộc đời của Srinivasa Ramanujan.
Bình luận về "tính hiệu quả không hợp lí và tính phổ biến của các dạng modular", Martin Eichler có lần từng viết: "có năm phép toán số học sơ cấp: cộng, trừ, nhân, chia,... và các dạng modular." Các phương trình $(26,(29)$ và $(30)$ chỉ là một số ít của rất nhiều các đẳng thức kì diệu tồn tại, giống như các chủng loại kì lạ của hoa dại thơm hoặc hoa con, trong cái mà Roger Godement gọi là "khu vườn của những thú vui modular".
Ví dụ trên, và rất nhiều ví dụ khác cùng loại, được mô tả trong chuyên khảo thú vị của Jean-Pierre Serre, đề cập đến các chủ đề cũng được đề cập trong bài giảng của Serre tại lễ trao giải Abel đầu tiên năm $2003$.
Hecke đã có thể suy ra rằng tất cả các đa thức bậc ba một biến là modular, tức là, các hệ số của các hàm zeta của chúng tuân theo những quy luật giống như của $(24)$ và $(25)$. Thành tựu của Wiles là mở rộng kết quả này ra cho một lớp rộng hơn các phương trình Diophantine bậc ba hai biến trên các số hữu tỷ: các phương trình đường cong elliptic, mà có thể được đưa về dạng
\begin{equation}
y^2 = x^3+ax + b
\end{equation} sau một phép đổi biến thích hợp và không suy biến, một điều kiện tương đương với khẳng định rằng biệt thức $\Delta \coloneqq -16(4a^3+27b^2)$ khác không.
Để minh hoạ định lý của Wiles với một ví dụ tường minh, xét phương trình
\begin{equation}
E: y^2 = x^3 - x
\end{equation} với biệt thức $\Delta = 64$. Sau khi đặt
\begin{equation}
\zeta(E;s) = \zeta(s-1) \times (a_1+a_2 2^{-s} + a_3 3^{-s} + a_4 4^{-s} + \cdots )^{-1},
\end{equation} chuỗi sinh liên kết đẳng thức sau, gợi nhớ tới $(24)$ và $(26)$,
\begin{align}
F(q) & = \sum a_n q^n \notag \\
& = q - 2q^5 - 3q^9 + 6q^{13} + 2q^{17} - q^{25} + \cdots \\
& = \sum_{a,b} a \cdot q^{a^2+b^2} \\
& = q \prod_{n=1}^{\infty}(1-q^{4n})^2(1-q^{8n})^2
\end{align} ở đó tổng trong $(35)$ chạy trên $(a,b) \in \mathbb{Z}^2$ mà số nguyên Gauss $a+bi$ đồng dư $1$ modulo $(1+i)^3$. (Đẳng thức này suy ra từ nghiên cứu của Deuring về các hàm zeta của các đường cong elliptic với phép nhân phức, và có thể đã được biết đến từ trước đó.) Một lần nữa, hàm chỉnh hình $f(z) \coloneqq F(e^{2\pi i z})$ là một dạng modular, thoả mãn một luật biến đổi hơi khác một chút
\begin{equation}
f\bigg( \frac{az+b}{cz+d}\bigg) = (cz+d)^2f(z), \ \ \ \ \begin{cases}
a,b,c,z\in \mathbb{Z} \ \ ad-bc=1, \\
32\mid c.
\end{cases}
\end{equation} Lưu ý rằng luỹ thừa $2$ xuất hiện trong công thức này. Vì nó, hàm $f(z)$ được gọi là một dạng modular với trọng $2$ và mức $32$. Các dạng modular của $(25)$ gắn với các phương trình bậc ba một biến có trọng $1$ nhưng mặt khác, sự song song của $(35)$ và $(36)$ với $(24)$ và $(26)$ là đáng kinh ngạc. Giả thuyết ban đầu của Shimura-Taniyama và Weil khẳng định cùng quy luật đó cho tất cả các đường cong elliptic:
Giả thuyết. Gọi $E$ là một đường cong elliptic bất kì. Khi đó, \begin{equation}
\zeta(E;s) = \zeta(s-1) \times \left(\sum_{n=1}^{\infty}a_n n^{-s} \right)^{-1},\end{equation} trong đó $f_E(z) \coloneqq \sum a_n e^{2\pi i n z}$ là một dạng modular với trọng $2$.
Giả thuyết này thực ra cụ thể hơn và dự đoán rằng mức của $f_E$ - tức là, số nguyên xuất hiện trong tính chất biến đổi của $f_E$, như các số nguyên $23$ và $32$ lần lượt xuất hiện trong $(25)$ và $(37)$ - bằng với conductor số học của $E$. Conductor này, chỉ chia hết cho các số nguyên tố mà phương trình của $E$ trở thành suy biến modulo $p$, là một phép đo độ phức tạp số học của $E$ và có thể được tính toán tường minh từ một phương trình của $E$ bằng một thuật toán của Tate. Một đường cong elliptic được gọi là bán ổn định nếu conductor số học của nó là một số nguyên không có bình phương. Lớp các đường cong elliptic này chứa các đường cong có dạng
\begin{equation}
y^2 = x(x-a)(x-b),
\end{equation} với $\gcd(a,b) = 1$ và $16 \mid b$. Các đường cong elip nổi tiếng nhất trong lớp này là những đường cong cuối cùng không tồn tại: "các đường cong Frey" $y^2 = x(x-a^p)(x+b^p)$ phát sinh từ các nghiệm giả định của phương trình Fermat $a^p+b^p = c^p$, sự không tồn tại của chúng đã được xác lập trước đó trong một bài báo mang tính bước ngoặt của Kenneth Ribet, dưới giả định về tính modular của chúng. Chứng minh của giả thuyết Shimura-Taniyama-Weil cho các đường cong elliptic bán ổn định đã mang lại của Andrew Wiles giải Abel:
Giả thiết bán ổn định trong định lý của Weiles về sau đã được loại bỏ bởi Christophe Breuil, Brian Conrad, Fred Diamond và Richard Taylor vào khoảng năm $1999$.
Tác giả: Henri Darmon.
Bài viết gốc: Andrew Wiles' Marvelous Proof.
Dịch bởi: Phạm Khoa Bằng.
Bài viết đã được chỉnh sửa nội dung bởi bangbang1412: 01-01-2025 - 23:09