Đến nội dung

Hình ảnh

Glenn Theodore Seaborg

- - - - -

  • Please log in to reply
Chưa có bài trả lời

#1
namvk

namvk

    Tay Trái Vàng

  • Thành viên
  • 592 Bài viết
Nhà hạt nhân, ìvị đại thần” ba đời tổng thống Mỹ


(VietNamNet) - Trong dịp kỷ niệm Quốc khánh Hợp chủng quốc Hoa kỳ, VietNamNet giới thiệu chân dung một nhà hạt nhân huyền thoại, vị ìđại thần” lỗi lạc và đầy quyền uy của nước Mỹ qua bài viết của một nhà khoa học hạt nhân, một cựu quan chức trong ngành năng lượng nguyên tử của Việt Nam.

Nhà phát minh khổng lồ

Trong sự nghiệp vẻ vang của đời mình, Glenne Theodore Seaborg (1912 - 1999) giành nhiều tâm huyết và sức lực nhất và cũng đạt được những thành quả đồ sộ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu phát minh các nguyên tố mới chưa hề có mặt trong bảng tuần hoàn các nguyên tố, các hạt nhân nặng hơn Uran (nguyên tử số Z lớn hơn con số 92); hay còn gọi là các nguyên tố siêu uran.

Việc phát hiện một nguyên tố mới để kéo dài thêm bảng tuần hoàn là một sự kiện khoa học đầy hấp dẫn và được ngưỡng mộ trong giới khoa học. Hấp dẫn và ngưỡng mộ vì rất hiếm, không thể tìm thấy trong trong quả đất chúng ta. Các nguyên tố này chỉ là nhân tạo, và được tạo ra trong một số rất ít phòng thí nghiệm hàng đầu thế giới. Ở đây, mới có thể thực hiện được các thí nghiệm lý tưởng: các tấm bia siêu sạch được bắn phá trên chùm hạt cực mạnh của máy gia tốc hiện đại, và được nhận diện bởi máy phân tách siêu tinh vi.

Phòng thí nghiệm quốc gia mang tên Lawrence ở Berkley (LBNL) là địa chỉ lý tưởng nhất đáp ứng những yêu cầu đó. Nhưng cũng chưa đủ, nếu ở đó thiếu những trí tuệ bậc cao, một nhà hoá học tài ba Glenn T. Seaborg sát cánh với các nhà vật lý nổi tiếng Edwin M. McMillan, Philip H. Abelson, Emilio Segre, Albert Ghiorso v.v... Họ tạo thành một tập thể làm việc tuyệt vời, và ìBerkley team” ấy, tiếp nối nhau, lập nên chiến công phi thường trong cuộc chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học: phát minh 12 nguyên tố mới, chiếm đến 10% tổng số nguyên tố hoá học mà loài người tìm thấy từ trước tới nay.

Trong số đó, riêng Seaborg trực tiếp chỉ đạo hoặc là tác giả chính của 10 nguyên tố siêu uran sau đây: Plutonium (nguyên tố 94), Nobelium (102), Curium (96), Americium (95), Berkelium (97), Californium (98), Einsteinium (99), Fermium (100), Medelevium (101) và Seaborgium (106). Ông xứng đáng được tôn vinh là nhà hạt nhân, nhà phát minh khổng lồ.

Dĩ nhiên, giới hóa học và y học hạt nhân cũng không bao giờ quên rằng ông từng là tác giả của gần 100 đồng vị phóng xạ mới thuộc nhiều nguyên tố khác nhau, trong đó có những đồng vị như Iốt 131, Têchnêxi 99m, Côban 60 v.v… như là những chiếc đũa thần trong các chẩn đoán và chống chọi với căn bệnh bệnh ung thư hiểm nghèo từ hơn một thế kỷ nay.

Đặc biệt, phát minh cuối cùng (nguyên tố Seaborgium) và đầu tiên (Plutonium) của Grenn T. Seaborg đã làm cho tên tuổi ông trở nên nổi tiếng đến mức huyền thoại trong lịch sử khoa học.

Ngoại lệ: Được đặt tên một nguyên tố khi đang sống

Sự kéo dài đến trên hai mươi năm, từ lúc tìm ra nguyên tố có số Z=106 (năm 1974) đến khi được có tên gọi chính thức là Seaborgium (1997), cũng là câu chuyện kỳ lạ chưa hề xảy ra với bất kỳ nguyên tố siêu uran nào.

Nguyên tố 106 được phát hiện bởi nhóm khoa học nổi tiếng; gồm Glenn Seaborg và 7 thành viên khác tại phòng thí nghiệm LBNL ở Berkley (Đại học California). Gần như cùng thời gian đó ở Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân (Đupna, Liên xô cũ), nhóm khoa học quốc tế cũng tuyên bố tìm thấy 106. Cuộc tranh cãi bản quyền phát minh kéo dài gần hai mươi năm, cho đến năm 1993 mới ngã ngũ với phần thắng nghiêng về nhóm Berkley.

Và theo thông lệ, nhóm Berkley được quyền đề xuất tên cho nguyên tố mới. Nhưng giữa nhóm này lại không dễ dàng thống nhất với nhau. Tám thành viên trong nhóm đề xuất một bảng danh sách dài để chọn lựa, từ những danh nhân khoa học và văn hoá lỗi lạc như Newton, Edison, Leonardo da Vinci, Ferdinad Magellan, tổng thống đầu tiên của Hoa kỳ George Washington, đến tên nước như Finland (tổ quốc của một thành viên trong nhóm), thậm chí cả tên nhân vật thần thoại như Ulysses.

Sau một thời gian dài không có được tiếng nói chung, bỗng một hôm, nhà vật lý gốc Ý nổi tiếng trong nhóm, Albert Ghiorsio, bước vào văn phòng Glenn Seaborg, đề xướng: Lấy tên của Seaborg để đặt cho ì106”, tại sao không nhỉ!

Thế là tên nguyên tố Seaborgium (ký hiệu Sg) được báo cáo ngay với Hội Hoá học Mỹ (ACS) và lập tức được chấp nhận. Đó là tháng 3/1994. Nhưng đến tháng 8 năm đó, Hội Hoá Tinh khiết và Ứng dụng Quốc tế (IUPAC) đưa ra một nguyên tắc mới: không được đặt tên nguyên tố cho một người đang sống! Họ bác bỏ đề nghị của ACS và đề xuất tên khác là Rutherforium (Rf).

Hội Hoá học Mỹ cực lực phản đối và đe doạ tẩy chay. Nhiều cuộc tranh cãi dai dẳng xảy ra và đi tới sự dung hoà giữa mọi phía. Năm 1997, tại Geneve, cuộc họp của hội đồng IUPAC đã thông qua tên gọi nguyên tố 106 là Seaborgium.

Cuối cùng, đến tuổi 23, nguyên tố 106 mới chính thức được đặt tên! Trong lịch sử, chỉ có 10 tên người được mang tên nguyên tố là: Curies (Cm-96), Einstein (Es-90), Fermi (Fm-100), Mendeleev (Md-101), Nobelium (No-102), Lawrence (Lw-103), Rutherford (Rf-104), Seaborg (Sg-106), Bohr (Bh-107), Meitner (Mt-107).

Nhưng, đặc biệt, chỉ mỗi Glenn Theodore Seaborg là một ngoại lệ lịch sử, người đầu tiên trên thế giới còn sống được mang tên một nguyên tố hoá học.

Ngoài ra, có câu đùa thú vị mà thực, rằng Seaborg là con người duy nhất có một địa chỉ thư tín chỉ toàn bằng tên các nguyên tố mà ông là một tác giả phát minh. Quả vậy, có thể viết trên phong bì thư gửi cho nhà khoa học này như sau: Dr. Seaborgium, Phòng thí nghiệm Lawrencium, Thành phố Berkelium, bang Californium và nước Americium.

Plutonium và vai trò lịch sử

Trong những năm cuối của Thế chiến II, chính giới và các nhà khoa học Mỹ ìđứng ngồi không yên” trước những thông tin: hai khoa học gia ở nước Đức quốc xã, Otto Hahn và Fritz Strassman đã tạo được phản ứng phân hạch với hạt nhân uranium, cụ thể là U235. Điều này có nghĩa nước Đức phát xít đã có thể nắm được bí quyết chế tạo bom nguyên tử với sức tàn phá khủng khiếp.

Do đó, các nghiên cứu liên quan phản ứng phân hạch và nguyên tố siêu urani ở Mỹ được đặc biệt quan tâm. Phòng thí nghiệm Berkley đã tiến hành thí nghiệm lập lại các kết quả của người Đức về phân hạch của Uran dưới tác động của hạt trung hòa tử hạt nơtron. Đồng thời, họ khởi động nghiên cứu phản ứng tổng hợp tạo thành nguyên tố mới.

Sau khi tìm được nguyên tố siêu uran Neptunium (Np), số Z = 93, công việc vô cùng khó khăn này giao cho tân tiến sĩ 28 tuổi, Glenn T. Seaborg, đảm nhiệm. Tập hợp một nhóm đồng sự rất trẻ, Seaborg tiến hành ngay thí nghiệm: bắn phá uranium bằng chùm hạt deutrium trên máy gia tốc, rồi theo dõi các sản phẩm mới tạo thành nhằm tìm bắt nguyên tố chưa hề biết với Z=94.

Sau 10 tuần liền chờ đón vô vọng, bỗng mọi vật tưởng như chao đảo trên tầng 3 của Toà nhà Gilman trong khung viên Đại học California (ở Berkley) trong đêm chủ nhật 23 tháng 2 năm 1941. Một đồng vị phóng xạ của nguyên tố 94 đang chờ đợi đã được nhận dạng!. Một nguyên tố mới nữa đã được tìm thấy, bảng tuần hoàn Menđêlêep đã được kéo dài. Đó chính là nguyên tố Plutonium (ký hiệu là Pu); đặt tên theo ngôi sao Pluto hay sao Diêm Vương Tinh trong thái dương hệ của chúng ta.

Đó là đêm kỳ diệu trong cuộc đời khoa học của Seaborg, vì Plutonium là phát minh quan trọng đầu đời của mình. Đó cũng là đêm hệ trọng với cả nhân loại, vì chỉ một tháng sau, Seaborg phát hiện một tính chất đặc biệt quan trọng: hạt nhân Pu239 tương tự U235. Tức cả hai đều tham gia phản ứng dây chuyền và giải phóng một năng lượng cực kỳ lớn.

Với phát minh này, Seaborg đã được gọi tham gia trực tiếp vào dự án bí mật vừa mới thành lập, dự án bom nguyên tử Manhattan. Đúng vào ngày sinh nhật thứ 30, 19 tháng 4 năm 1942, Gleen Seaborg được điều đến phụ trách Phòng thí nghiệm kim loại học của Đại học Chicago, tham gia cùng Enrico Fermi làm bom.

Sau 3 năm làm việc căng thẳng ngày đêm, tập thể của Seaborg đã thu được một lượng Pu đủ chế tạo 3 quả bom nguyên tử. Ngày 9. 8.1945, tiếp theo quả bom Uranium tàn phá Hiroshima hai ngày trước, một quả bom Plutonium đã thả xuống thành phá Nagasaki của nước Nhật phát xít, góp phần xoay chuyển đổi cục diện Thế chiến thứ II.

Từ góc độ nhân đạo, lịch sử còn có những nhìn nhận khác nhau về sự kiện bi thảm đó. Dư luận vẫn đặt câu hỏi về vai trò của các nhà khoa học, trong đó có Seaborg, trước một sự kiện thảm khốc trong lịch sử.

Seaborg đã có lời tường trình: Trong khi chế tạo bom nguyên tử Plutonium, ìtôi đã tham gia một hội đồng các nhà khoa học bảo vệ cho việc sử dụng sức phá hoại của vũ khí chỉ nhằm mục tiêu phô diễn (chứ không tàn phá và giết chóc con người – TTM). Chúng tôi hy vọng kẻ thù thấy được sức tàn phá của vũ khí và lập tức đầu hàng. Tháng sáu năm 1945, chúng tôi báo cáo kế hoạch của mình (gọi là bản báo cáo Franck) lên tổng thống Truman. Tôi không hiểu ông có xem báo cáo của chúng tôi hay không. Hoặc có, nhưng kiến nghị trong đó bị phớt lờ”.

Như vậy, sản phẩm sáng tạo của nhà khoa học như đứa con, khi sinh ra đã tuột khỏi vòng tay người mẹ, và trách nhiệm trước cuộc đời về đứa con đó, nếu hư hỏng, không còn thuộc người mẹ nữa. Đó là điều nhà khoa học hạt nhân Seaborg muốn nói.

Lời bình luận xin nhường người đọc. Tác giả bài này chỉ muốn bổ sung một chi tiết: Giờ đây, hạt nhân Plutonium đang được nhiều nước quan tâm sử dụng trong các nhà máy điện nguyên tử như là một thành phần của loại nhiên liệu hỗn hợp. Và theo Seaborg, ìnếu phát triển kiểu lò hạt nhân tái sinh, chúng ta sẽ dùng được loại hạt nhân không phân hạch uranium-238 (có rất nhiều trong quặng urani, chiếm 99,3% - TTM) để sản sinh ra các hạt nhân phân hạch plutonium-239, như vậy lượng nhiên liệu tái sinh sẽ tăng lên hàng trăm lần. Ngoài ra, chúng ta có thể sử dụng loại quặng uranium hàm lượng rất thấp, như vậy rất lợi về mặt kinh tế. Và điều này có nghĩa là nguồn tài nguyên uranium sẽ kéo dài gần như vô tận, đến cả ngàn năm.

Rõ ràng, Plutonium, đứa con tinh thần đầu tiên của Glenn Theodore Seaborg, còn tiếp tục hoàn thành nốt vai trò lịch sử lớn lao của mình với nhân loại.

Vị ìquan đại thần” của ba đời Tổng thổng Mỹ

Với sự nghiệp vang dội trong khoa học, Seaborg đã được trao trọng trách Chủ tịch Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Hoa kỳ trong suốt hơn 10 năm.

Trước đó, Ông đã trải qua các cương vị Giám đốc các phòng thí nghiệm hàng đầu, Giáo sư và Hiệu trưởng Trường Đại học California tại Berkley, Uỷ viên hội đồng cố vấn tổng quát của Tổng thống Truman (1946-1950) hay Uỷ viên hội đồng cố vấn khoa học của Tổng thống Eisenhower (1959 – 1961). Trong vai trò cố vấn, trong đời mình ông đã trợ giúp cho sáu vị tổng thống nước Mỹ.

Nhưng cương vị Chủ tịch Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Hoa kỳ (AEC), ở một cường quốc hạt nhân như Mỹ, mới là chức vụ vô cùng quan trọng, một ìquan đại thần” về khoa học đầy quyền năng. Năm 1961, Seaborg được tổng thống Kennedy mời về Washington và bổ nhiệm vào chức vụ đó.

Và ông đã giữ cương vị này suốt 10 năm rưỡi liền (1/2/1961 – 6/11/1971) qua ba đời tổng thống Kennedy, Johnson, và Nixon. Một thời kỳ mà nền công nghệ hạt nhân của Mỹ phát triển nhanh chưa từng thấy và tình hình quốc tế cũng trải qua những sự kiện đầy sóng gió.

Seaborg đã chèo lái AEC thực hiện những nhiệm vụ trọng đại. Soạn thảo và ký các hiệp ước cấm thử vũ khí giới hạn (LTBT), hiệp ước không lan truyền vũ khí hạt nhân (NPT), hiệp ước giới hạn vũ khí chiến lược (SALT), hiệp ước ABM. Tham gia giải quyết cuộc khủng hoảng tên lửa Cu ba và thực hiện chương trình hợp tác quốc tế với các chuyến thăm con thoi của ông qua 60 quốc gia.

Ông cũng đã triển khai nhiều chương trình và công việc quan trọng phát triển nền khoa học và tiềm năng hạt nhân trong nước. Chẳng hạn: Chương trình hỗ trợ nghiên cứu khoa học. Xây dựng ìnhà máy” Meson (tên một hạt cơ bản) và máy gia tốc khổng lồ 200 BeV. Chương trình lò phản ứng hạt nhân dân dụng. Chương trình năng lượng nguyên tử trong không gian. Chương trình nghiên cứu tổng hợp hạt nhân nhiệt hạch có điều khiển (CTR). Chương trình giáo dục và đào tạo hạt nhân v.v và v.v...

Quả là Glenn Theodore Seaborg đã để lại dấu son trên trường ngoại giao quốc tế về vấn đề gai góc của thời đại, giải trừ quân bị toàn cầu và trong sự định hướng phát triển nền công nghệ hạt nhân quốc phòng và dân dụng của nước Mỹ siêu cường.

Vinh dự và hạnh phúc

Với sự nghiệp đồ sộ cống hiến cho nền khoa học của nhân loại và đất nước mình trong suốt 70 năm lao động sáng tạo, sẽ không gì lạ nếu ngoài giải Nobel danh tiếng, Seaborg cũng đạt luôn ìkỷ lục” về con số các danh hiệu, giải thưởng, bảng vàng v.v... mà nước Mỹ và quốc tế giành cho ông. Vinh dự và kỷ lục đó có lẽ số nhà khoa học trong thế kỷ 20 đạt được không nhiều.

Trải qua những đỉnh cao danh giá và quyền lực, nhưng Seaborg trong cuộc đời vẫn là con người của khoa học, bình dị và rất con người.

Suốt đời làm việc, kể cả sau khi từ giã quan trường, Seaborg là tác giả của khoảng 200 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí danh tiếng của thế giới, là tác giả hay đồng tác giả nhiều cuốn sách về hoá học và nguyên tố.

Và đáng quý, cho đến những năm cuối đời, tuổi già sức yếu, ông vẫn luôn gắn bó với các thế hệ trẻ, với đông đảo công chúng qua nhiều bài giảng, bài nói chuyện như ìngười hát rong” về khoa học, qua nhiều bài báo và cuốn sách mang tính phổ cập rất cao và đầy sức hấp dẫn với những người ìngoại đạo”.

Là người có công lớn với nền giáo dục là người thầy lớn của nhiều thế hệ sinh viên, Seaborg vẫn luôn lưu giữ những quan hệ thầy trò trung hậu và đằm thắm. Cả đời ông luôn tỏ lòng kính trọng với Gilbert N. Lewis và Earnest O. Lawrence, hai người thầy mà ông xem là đặc biệt quan trọng, truyền cho ông những kiến thức và kinh nghiệm đầu đời hết sức quý giá. Giữa họ hình thành mối quan hệ đặc biệt, tình thầy trò, tình bạn lớn ... suốt đời.

Người ta còn kể lạị nhiều câu chuyện cảm động về cách ứng xử ân tình của Seaborg với các thầy giáo cũ khác. Ngay khi ông đã trải qua những vị trí quyền lực cao và nổi tiếng toàn thế giới, ông vẫn viết thư trả lời cho từng thầy giáo cũ, thường xuyên giúp đỡ và trân trọng trao chứng chỉ tốt nghiệp cho nhiều thầy và bạn cũ khi trở về trường tu nghiệp.

Đối với con người bình dị như Seaborg, cuộc sống gắn bó ân tình với con người, với công chúng, với đồng nghiệp với những người thầy và học trò cũ chắc là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời ông. Nhất là khi mọi chức quyền và hào quang đã lùi về dĩ vãng. Sự lựa chọn cách sống đó chắc cũng là một ìphát minh” lớn đối với ông. Cũng như ông từng tuyên bố: Helen Griggs, vợ ông là phát minh lớn nhất đời mình.

Tài năng bẩm sinh và lao động không mệt mỏi có lẽ chưa đủ. Gia đình, cuộc đời và nước Mỹ giàu mạnh mới là chiếc nôi đưa Glenn Theodore Seaborg trở thành một nhà khoa học huyền thoại, một chính khách huyền thoại của nước Mỹ trong thế kỷ hai mươi.

Trần Thanh Minh (Theo VietNamNet)
Tất cả là phù du.




1 người đang xem chủ đề

0 thành viên, 1 khách, 0 thành viên ẩn danh