Bài 1: Cho số nguyên $n$ là hợp số, $n > 1$. Chứng minh rằng $n$ có ước nguyên tố $p \leqslant \sqrt{n}$.
Cách giải (của sách):
Do $n$ là hợp số nên $n$ có thể viết được dưới dạng $n = a.b$ với $a, b \in N, a > 1, b > 1$.
Bây giờ nếu cả $a > \sqrt{n}$ và $b > \sqrt{n}$ thì $ab > \sqrt{n}.\sqrt{n} = n$, mâu thuẫn. Do đó phải có $a \leqslant \sqrt{n}$ hoặc $b \leqslant \sqrt{n}$, và do đó $n$ có ước nguyên tố $p \leqslant \sqrt{n}$. Bài toán được chứng minh.
Mình thắc mắc là câu cuối để kết luận được có $a \leqslant \sqrt{n}$ hoặc $b \leqslant \sqrt{n}$ thì $n$ có ước nguyên tố $p \leqslant \sqrt{n}$ thì ngay từ đầu khi đặt $n = a.b$ phải có thêm điều kiện là $a$ hoặc/và $b$ là số nguyên tố chứ nhỉ? Nếu không đâu thể kết luận được $n$ có ước nguyên tố $p \leqslant \sqrt{n}$?
Bài 2: Chứng minh rằng tích của những số nguyên có dạng $4k + 1$ là số có dạng $4k + 1$.
Cách giải (của sách):
Vì với $k_{1}, k_{2} \in Z$ thì:
$(4k_{1} + 1)(4k_{2} + 1) = 16k_{1}k_{2} + 4k_{1} + 4k_{2} + 1 = 4(4k_{1}k_{2} + k_{1} + k_{2}) + 1 = 4k_{3} + 1$, do đó tích của những số nguyên có dạng $4k + 1$ là số có dạng $4k + 1$.
Vì sao cách giải trên chỉ mới xét trường hợp tích của 2 số là đã kết luận rồi? Trường hợp tích của nhiều số dạng $4k + 1$ thì sao?
Ai biết thì xin giải đáp những thắc mắc trên của mình nhé.
Minh` cam on.