PHẦN III
Sau phần khái quát trên về chương trình khoa học cũng như thời gian lưu trú của tôi ở VNDDCH, giờ là lúc để tiếp tục đến chủ đề chính và nói về những gì tôi đã thấy và học được về đời sống toán học tại Việt Nam. Điều đần tiên tôi muốn nói - một tuyên bố khá phi thường trong bối cảnh hiện tại - đó là thực sự tồn tại một nền toán học VNDCCH. Để đánh giá đúng vị thế của tuyên bố này, trước hết cần nhớ rằng vào năm 1954, sau cuộc chiến dài 8 năm giải phóng khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp (tức 13 năm trước), giáo dục đại học gần như không tồn tại ở VNDCCH. Trong suốt cuộc chiến đẫm máu từ năm 1946 đến năm 1954, nỗ lực chính trong giáo dục được là xóa mù chữ cho đại đa số nông dân, đến mục tiêu cuối cùng trong những năm tiếp theo, khoảng 1958, khi việc xóa mù chữ về cơ bản đã hoàn thành ở khu vực đồng bằng. (Xem mục "L’Education en R.D.V." trên Tạp chí Etudes Vietnamiennes, tháng 5/1965, ở đó có những nghiên cứu thú vị về giáo dục ở VNDCCH đến năm 1965.) Hiện nay ở VNDCCH, nếu tôi không nhầm thì chỉ có một nhà toán học có bằng tiến sĩ: Ông Lê Văn Thiêm, người đã hoàn thành luận án tiến sĩ của mình tại Pháp năm 1948 và sau đó trở về Việt Nam (trong thời chiến). Một nhà toán học khác, Tạ Quang Bửu, chủ yếu là tự học (như tôi đã đề cập trước đó), lúc đó đang giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng (ông là người ký kết các Hiệp định Genève cho phía Việt Nam năm 1954). Do đó, giáo dục đại học phải xây dựng gần như từ con số không. Phương pháp được áp dụng (rõ ràng là phương pháp duy nhất khả dĩ) là gửi những người trẻ đến các trường đại học ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô. Trong số khoảng 100 giảng viên toán học tại Đại học Hà Nội và Đại học Sư phạm, khoảng ba mươi người đã đi nước ngoài để đào tạo từ 4 đến 6 năm. Họ đã đạt đến trình độ của một Phó Tiến sĩ ở Liên Xô, mà theo tôi, đó là là thấp hơn so với Tiến sĩ ở Pháp (cần có học vị Tiến sĩ ở Liên Xô để có thể đủ tư cách giảng dạy ở trường đại học). Điều này có nghĩa là họ đã công bố một vài bài báo, thường được đăng trên các tạp chí Liên Xô hoặc Đông Âu. (Những năm gần đây, họ cũng xuất bản trực tiếp bằng tiếng Việt: trong bộ tái bản tôi nhận được khi khởi hành có một số bài báo tiếng Việt.) Có rất ít giáo sư, hầu hết là trợ giảng. Có khoảng 30 nhà toán học trẻ khác đang học tập ở nước ngoài và sẽ trở về Việt Nam trong vài năm tới sau khi hoàn thành chương trình học. Khoảng hai phần ba giảng viên toán học hiện tại được đào tạo tại Việt Nam trong vài năm qua. Họ chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, và thậm chí kinh nghiệm làm toán còn ít hơn. Số sinh viên toán ngày càng tăng (500 sinh viên chỉ tính Đại học Hà Nội đã sơ tán), cùng với sự phân tán sinh viên do hoàn cảnh thời chiến khiến cho nhu cầu giảng viên là 1 cho mỗi 10 sinh viên, đã dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong việc đào tạo giảng viên. Đó là vấn đề chung ở tát cả các cấp độ giáo dục khi VNDCCH được thành lập vào năm 1945. Ngoài ra, bản thân hầu hết các giáo viên đều mới thi qua các môn mà họ sắp dạy, gần như không hề có thời gian cần thiết để chuyển từ việc học sang việc dạy các môn đó.
Điều thứ hai làm cho sự tồn tại của của nền toán học VNDCCH trở nên phi thường là điều kiện sống và làm việc cực kỳ khó khăn do sự leo thang của chiến tranh bởi Mỹ. Cần nhớ rằng, trừ Hà Nội, tất cả các thành phố của VNDCCH đều bị phá hủy hoàn toàn, và người ta đã dự báo rằng Hà Nội cũng sẽ sớm bị phá hủy vào đầu năm sau, vì vậy nửa dân số Hà Nội đã được sơ tán ra ngoài nông thôn, cùng với các cơ quan hành chính quan trọng trong đó có giáo dục. Các khoa của Đại học Hà Nội (và hai Đại học Sư phạm) được phân tán đến các làng khác nhau. Việc sơ tán trường đại học đến làng nào được giữ bí mật tuyệt đối, mỗi làng đều không biết việc giảng dạy đang diễn ra ở các làng xung quanh, hay thậm chí ở chính làng đó. Nhờ kỷ luật nghiêm ngặt như vậy nên người Mỹ không phải lúc nào cũng tìm ra các làng này, kết quả là chúng vẫn chưa bị phá hủy bởi các cuộc oanh tạc có chủ đích. Đời sống vô cùng đơn sơ. Mọi người - hiệu trưởng, giảng viên và sinh viên - chung sống trong những ngôi nhà lá được làm bằng tre và tường đất, và bên ngoài cửa sổ là gió và mặt trời nóng cháy đất. Một số người sống với nông dân và một số khác sống trong những khu dân cư chung, thường là họ tự tay xây dựng. Không có đèn điện, họ dùng đèn dầu; và cũng chẳng có nước máy, họ dùng nước giếng. Như mọi người dân, rất ít giảng viên sống với gia đình: chồng làm việc một nơi, vợ và con sơ tán nơi khác, hoặc vợ làm việc còn các con được giao cho người thân ở vùng khác. Gia đình họ được đoàn tụ khi tình hình cho phép, có lẽ là một ngày mỗi tháng, trong đó thường phải trừ đi khoảng 10 tiếng đi lại (bằng xe đạp, tất nhiên). Việc đi lại chủ yếu là vào ban đêm để tránh quân địch. Vì các con đường liên tục bị phá đi xây lại, phương tiện di chuyển tốt nhất cho một người là xe đạp, thứ có thể dễ dàng mang trên lưng để đi đường vòng qua đống đổ nát nơi đường bị phá. Sống ở nông thôn hay thành phố đều có khả năng bị không kích thường trực. Rất nhiều khi trời đẹp, máy bay địch thỉnh thoảng sẽ bay qua trường đại học và xả bom bừa bãi trước khi về căn cứ - đôi khi làm dân thường bị thương hoặc chết. Trong tháng trước tháng tôi đến, hai đứa trẻ nông thôn đã bị giết theo cách này. Cho đến nay, chưa có cuộc không kích nào vào những ngôi làng nơi các trường đại học ẩn náu. Hơn nữa, như mọi khi, một đơn vị "tự vệ" đã được thành lập bởi các giảng viên để phản công trong trường hợp bị không kích. Mọi người phải đội mũ bảo vệ để tránh mảnh vụn từ bom bi; tuy nhiên, do ở miền quê khá yên ổn nên người ta thường không tuân thủ các biện pháp an toàn. Đồng thời, hầu như nhà nào cũng có hầm tránh bom, được đào sâu xuống đất với nắp đậy được ngụy trang bằng đất; chúng rất hiệu quả để tránh đạn cũng như các vụ nổ. Các biện pháp an toàn đặc biệt được thực hiện cho các phòng học và phòng họp, cũng như các lớp học của trẻ em. Các hệ thống đường hầm, thường kéo dài bắt đầu từ trong phòng, được giấu khỏi tầm mắt và cho phép sơ tán nhanh chóng mà không bị phát hiện bởi máy bay địch. Nói chung, các đường hầm ở ngay cạnh các ghế ở cả hai bên, để mọi người có thể đi trốn ngay lập tức khi bị tấn công. Các phòng học thường được chôn nửa dưới đất, với phần tường trên mặt đất làm bằng đất khô dày khoảng một mét để chống lại sức công phá của bom. Phần dễ bị tấn công nhất còn lại là mái nhà, nó dễ dàng bị sập dưới tác động của bom, đặc biệt là bom chùm, chúng thường nổ ở độ cao vài mét để càn quét người dân một cách hiệu quả hơn. Trang thiết bị khoa học, điều vốn là đơn giản trong toán học, lại là vấn đề lớn với các ngành khác. Tôi đã chứng kiến một phòng thí nghiệm hoá học hoạt động, với khoảng 20 sinh viên đang làm thí nghiệm thực hành dưới ánh đèn dầu (có hiệu chỉnh để đạt cường độ của bóng đèn điện). Chủ tịch Khoa Hoá học, ông Nguyễn Hoán, đã dẫn tôi đến phòng thí nghiệm để chiêm ngưỡng nước chảy trong bình xăng của một máy bay Mỹ bị bắn hạ gần đó (bình này được giấu kỹ dưới một mái che bằng tre). Sinh viên của ông thay phiên nhau bơm nước bằng bơm tay vào bình từ một bể chứa nước suối gần đó. Trong trường hợp cần thiết, ở các phòng thí nghiệm, người ta cũng tạo ra được điện từ một động cơ chạy bằng xăng.
Lương thực khá thiếu thốn, nhưng cũng chưa đến mức như lần chiến tranh gần nhất ở Pháp. Người dân có vẻ không phải chịu đói, ở cả thành phố lẫn nông thôn. Công việc đồng áng dường như diễn ra với tốc độ bình thường, một số được thực hiện vào ban đêm, khi không có nguy cơ bị không kích. Cả giảng viên và sinh viên đều phải chăn nuôi (gà, thỏ, vv.) và làm vườn, góp phần giải quyết vấn đề lương thực: trung bình các giảng viên dành nửa giờ mỗi ngày cho việc này, sinh viên nhiều hơn. Nói chung, tôi có cảm giác rằng các nhu yếu phẩm như lương thực, quần áo, chỗ ở và chăm sóc sức khỏe được đảm bảo cho mọi người hoặc gần như mọi người, không chỉ cho cán bộ, nhờ những nỗ lực và phẩm chất kiên trì đáng ngưỡng mộ.
Như tôi đã đề cập trước đó, các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta có một thời gian biểu vô cùng bận rộn. Nó thường bao gồm khoảng chục tiếng làm việc mỗi tuần, ngoài thời gian di chuyển, thường khá dài, do khoảng cách giữa các làng khác nhau nơi các lớp học được tổ chức. Họ còn phải họp hành khá nhiều. Hai buổi họp mỗi tuần, mỗi buổi 3 tiếng, được dành cho các cuộc thảo luận chung để những giảng viên có kinh nghiệm hỗ trợ những người mới trong các vấn đề giảng dạy của họ. Tuy nhiên, sau khi thảo luận những vấn đề chung xong, rất khó để hình dung ra các cuộc họp này có thể bao gồm những gì nữa - trong trường hợp tốt nhất có lẽ là các "ma cũ" sẽ giúp đỡ đồng nghiệp trẻ giải bài tập, thứ mà sau đó sẽ được giảng lại cho sinh viên; và trong trường hợp xấu nhất sẽ là nỗ lực khám phá vai trò của của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong các lĩnh vực toán học khác nhau. Trong tuần còn có một khóa học bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin vào buổi chiều, kéo dài 6 tiếng (hai ca, mỗi ca 3 tiếng), có vẻ như tất cả các giáo viên mọi cấp đều phải học, kể cả cả những người đã được bồi dưỡng kiến thức mười năm trở lên. Nói chung, chính trị có sức ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cá nhân và công việc của mỗi cá nhân, và rõ ràng là, trừ trong hoàn cảnh chiến tranh, điều này tạo ra một rào cản nghiêm trọng đối với hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, thứ yêu cầu nỗ lực liên tục và tập trung tuyệt đối. Ngoài các sinh hoạt chính trị kể trên và các hoạt động kháng chiến như đào hào, sửa chữa nhà cửa hư hỏng do thời tiết, mua thực phẩm, làm vườn và chăn nuôi, như đã đề cập trước đó, thì đồng nghiệp của chúng ta chỉ có khoảng thời gian bằng một ngày mỗi tuần để dành cho công việc cá nhân, học hành và nghiên cứu, nếu có cơ hội. Và rất hiếm khi có một ngày hoàn toàn tự do để làm việc cá nhân.
PHẦN IV
Sau khi trình bày một bức tranh tổng quan về những khó khăn đáng kể về mặt vật chất mà nền khoa học đang phát triển ở VNDCCH phải đối mặt, tôi sẽ quay trở lại với định lý tồn tại đã tuyên bố cách đây không lâu và được chứng minh bởi các đồng nghiệp Việt Nam của chúng tôi: đó là tồn tại một nền khoa học, cụ thể hơn là nền toán học ở VNDCCH. Tôi đã cảm thấy một tinh thần tuyệt vời giữa tất cả những nhà toán học trẻ mà tôi đã có cơ hội trò chuyện - một khao khát học hỏi mãnh liệt, cũng như khao khát được đóng góp cho nghiên cứu khoa học theo cách của riêng họ. Một số người có mối quan tâm gần với chuyên môn của tôi đã để lại ấn tượng sâu sắc về tài năng nghiên cứu của họ. Chẳng hạn, anh Đoàn Quỳnh, 33 tuổi, người thông dịch các bài giảng của tôi, đã học 6 năm tại Liên Xô. Vì không được định hướng đúng, cấp trên đã sắp xếp cho anh ấy nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của một nhà toán học Liên Xô chuyên về hình học vi phân kiểu cũ, người chưa từng biết đến công trình của Chern. Vì không thể đổi thầy hướng dẫn, Quỳnh chỉ thực sự bắt đầu nghiên cứu kể từ khi trở về từ Liên Xô, trong điều kiện gần như hoàn toàn cô lập, những gì anh ấy nghĩ là cần thiết trong lĩnh vực được giao: lý thuyết nhóm Lie và đại số Lie của các không gian Riemann đối xứng, và tôpô của chúng. Trước khi chiến tranh leo thang, anh ấy đã đăng một bài báo ngắn trên tạp chí Doklady về đối đồng điều của một số không gian thuần nhất của nhóm Lie compact, và gần đây nhất thì anh ấy đã thực hiện một công trình xây dựng các không gian thuần nhất Riemann với độ cong dương. Bài báo này sẽ sớm được xuất bản bằng tiếng Việt. Tôi đã gửi lại cho Marcel Berger, chuyên gia trong lĩnh vực này, một bản tóm tắt cho tạp chí Comptes Rendus được viết bởi Quỳnh, và Berger sẽ (theo tôi đoán) thấy rằng các kết quả này là thú vị và có thể công bố. Ông ấy hứa với tôi rằng sẽ liên hệ với Quỳnh để trao đổi về các chi tiết trong chứng minh cũng như một số câu hỏi đề xuất trong bản tóm tắt. Một nhà toán học trẻ khác là anh Hoàng Thúc Hào, 28 tuổi, đã nghiên cứu các nhóm rời rạc với Aleksandr Kurosh và đã viết luận án Phó tiến sĩ về một định nghĩa siêu hạn khác nhau về tính lũy linh và tính giải được của các nhóm này. Anh cũng công bố một số kết quả theo hướng này trong giai đoạn chiến tranh. Anh ấy đã đọc bài báo cơ bản của Chevalley trên tạp chí Tohoku Math. về các nhóm hữu hạn ứng với các nhóm Lie nửa đơn phức; anh ấy muốn trau dồi kiến thức của mình, đặc biệt là về các nhóm hầu hữu hạn. Anh ấy cũng để lại cho tôi ấn tượng tốt đẹp. Trong số những "nhà đại số" tôi đã nói chuyện, đây là hai người với kiến thức vững nhất và có lẽ là những người giỏi nhất. Tôi cũng nói chuyện với các giảng viên trẻ hơn, một số trong họ muốn bắt đầu nghiên cứu đại số đồng điều nhưng rõ ràng là họ thiếu định hướng để bắt đầu.
Ngay lúc này, trong các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta đã có những người quan tâm đến nhiều lĩnh vực khác nhau và đều hết sức quan trọng trong toán học, chẳng hạn như:
- Xác suất.
- Giải tích số.
- Logic, Lập trình.
- Phương trình vi phân và Phương trình đạo hàm riêng.
- Giải tích hàm.
- Tôpô đại cương (một học trò của Yuri Smirnov), Hình học phi Euclide.
- Đại số (Lý thuyết nhóm, Đại số đồng điều).
- Hình học vi phân.
- Lý thuyết số (một học trò của Alexandre Gelfond).
- Hàm một biến thực.
- Hàm một biến phức.
Những người bạn Việt Nam của chúng ta, và đặc biệt là những trụ cột mà tôi đã nói chuyện, hoàn toàn nhận thức được nhược điểm của sự thiếu định hướng chung là thế nào. Kết quả là (trừ một số nhà giải tích đã tìm được những bài toán chung để nghiên cứu) mỗi nhà toán học đều bị cô lập với nhau và không có cơ hội thực sự để tiếp xúc khoa học, cả trong nước lẫn (cho đến nay) bên ngoài (trừ khi họ đang học tập ở nước ngoài). Họ đồng ý với tôi rằng sẽ tốt hơn nếu các nhà toán học có thể tập trung lại vào một số chủ đề chính của toán học hiện đại, có thể là Hình học đại số hay Tôpô (ngoài Giải tích). Nhưng với những nhà toán học "già", điều này đòi hỏi nỗ lực thay đổi mà chỉ những người giỏi nhất mới sẵn sàng và có thể thực hiện được.Vì vậy, việc tinh chỉnh các hướng đi như vậy cần được thực hiện dần dần, bắt đầu với các nhà toán học trẻ (mà những người giỏi nhất được đào tạo ở nước ngoài, luật bất thành văn). Dù sao, theo tôi thì đây hiển nhiên là vấn đề cốt yếu nếu sự nền toán học đang phát triển ở VNDCCH muốn đạt đến chất lượng sánh được với số lượng kết quả phi thường của những người bạn Việt Nam. Đây chắc chắn là một vấn đề khó khăn, trong bối cảnh tổng thể cực kỳ khắc nghiệt do chiến tranh, và mặt khác là sức ỳ của vạn vật, ngay cả khi người ta nhận thức được rõ ràng các vấn đề nó gây ra. Tuy nhiên, sau tất cả những gì tôi đã thấy ở VNDCCH, tôi tin rằng chúng ta có thể tin tưởng những người bạn Việt Nam, và sẽ không có gì ngạc nhiên nếu, trong 10 đến 15 năm tới, chúng ta thấy một sự nở rộ thực sự của nền khoa học của Việt Nam, nền khoa học mà ta đã biết là có tồn tại trong bóng tối tính đến hiện tại.